Đô thị

Không gian sống

Bảo tồn tài nguyên nước và trồng rừng: Hướng đi bền vững để ứng phó với biến đổi khí hậu, khắc phục thiên tai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, gây ra hàng loạt những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lụt, hạn hán và xâm nhập mặn.

Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), các hiện tượng thời tiết cực đoan đã gia tăng với tần suất và cường độ cao hơn so với trước đây. Ở Việt Nam, tình trạng trên đã gây ra những tác động sâu rộng, đặc biệt là việc gia tăng tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lụt, hạn hán và xâm nhập mặn.

Những sự kiện này không chỉ làm hủy hoại hạ tầng kinh tế và xã hội mà còn gây thiệt hại lớn đến nguồn tài nguyên nước và môi trường sinh thái. Trước thực trạng này, bảo tồn tài nguyên nước và phục hồi mảng xanh trở thành những giải pháp thiết yếu nhằm giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, đồng thời hướng đến phát triển bền vững.

Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước

Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên, dẫn đến những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt và khó dự đoán. Theo Cục Quản lý đê điều và phòng-chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và PTNT, trong năm 2023, nước ta đã xảy ra trên 1.100 trận thiên tai, khiến 166 người chết và mất tích, thiệt hại về kinh tế ước tính khoảng 8.236 tỉ đồng.

Chỉ đơn cử, ảnh hưởng của cơn bão số 3 hồi đầu tháng 9 năm nay gây lũ lụt đã làm thiệt hại người và tài sản ở nước ta rất lớn, đây là cơn bão mạnh nhất trên Biển Đông trong 30 năm qua, hoàn lưu sau bão có phạm vi ảnh hưởng rất lớn, trải dài ở 26 tỉnh, thành phố ở toàn miền bắc và Thanh Hóa (chiếm trên 41% GDP và 40% dân số của cả nước), gây ra mưa lớn kéo dài, ngập lụt, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất… diễn ra nghiêm trọng trên nhiều địa bàn.

Ước tính sơ bộ, chưa đầy đủ, thiệt hại về tài sản do bão số 3 gây ra khoảng 50 nghìn tỷ đồng; chỉ với cơn bão số ba, thiệt hại về kinh tế gấp năm lần so với cả năm 2023.

Tác động của biến đổi khí hậu đến tài nguyên nước (ảnh minh họa)

Cụ thể, về thiệt hại trong nông nghiệp, mưa lũ làm cho 183.394 ha lúa bị ngập úng, tập trung tại các địa phương: Hải Phòng 23.873ha; Nam Định 18.102ha; Bắc Giang 18.779 ha; Thái Bình 11.000 ha; Hà Nội 27.318 ha; Hải Dương 7.755 ha; Hà Nam 7.928 ha; Vĩnh Phúc 9.830 ha...

Cùng với đó, mưa bão làm cho 44.071 ha hoa màu bị ngập úng, thiệt hại, tập trung tại: Hòa Bình 7.301 ha; Hải Phòng 5.116 ha; Hà Nội 4.046 ha; Nam Định 3.800 ha; Thái Bình 3.345 ha; Hải Dương 3.202 ha; Lạng Sơn 2.669 ha, Vĩnh Phúc 2.296 ha, Tuyên Quang 1.933 ha. Ngoài ra, có 23.661 ha cây ăn quả bị hư hại, tập trung tại: Bắc Giang 6.669 ha; Hải Dương 4.372 ha; Hà Nội 3.924 ha; Hưng Yên 2.953ha; Hải Phòng 2.043 ha; Thái Bình 1.385 ha…

Về nuôi trồng thủy sản, mưa lũ đã cuốn trôi, hư hỏng 2.250 lồng bè nuôi trồng thủy sản. Về chăn nuôi đã có 9.079 con gia súc, 1.956.449 con gia cầm bị chết. 350 người chết và mất tích...

Tại Gia Lai, năm 2023 cũng bị thiệt hại trên 75 tỷ đồng do bão lũ và hạn hán gây ra. Năm 2024 chưa được thống kê đầy đủ và ảnh hưởng của cơn bão số 3 mới đây ước tính thiệt hại cũng đã lên đến trên 200 tỷ đồng.

Lũ lụt không chỉ làm ngập úng đất đai, phá hoại cây trồng, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, mà còn phá hủy hệ thống cấp nước, khiến nguồn nước ngọt bị nhiễm mặn hoặc ô nhiễm, gây khó khăn lớn cho đời sống và sản xuất.

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hơn 60% các nguồn nước ngầm ở Đồng bằng Sông Cửu Long đã bị nhiễm mặn do ảnh hưởng của xâm nhập mặn gia tăng. Ở các khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, lũ lụt gây lở, sạt, lún đất, không còn rừng để giữ nước, cho nên sau lũ đến hạn hán, bởi nguồn nước ngầm và nước mặt ngày càng cạn kiệt.

Để đối phó với tình trạng này, các công trình thủy lợi, hồ chứa nước, đập điều tiết, và hệ thống kênh rạch cần được nâng cấp và quản lý hiệu quả. Việc cải thiện quản lý nguồn nước có thể giúp giảm thiểu thiệt hại do lũ lụt lên tới 30% và cải thiện chất lượng nước cho hơn 5 triệu người.

Bão lũ và sự cần thiết của phục hồi rừng và nguồn nước

Việt Nam đã chứng kiến những trận bão lụt có sức tàn phá lớn trong những năm gần đây, gây thiệt hại lên tới hàng tỷ USD. Theo báo cáo của Cơ quan Quản lý Khí tượng và Thủy văn Việt Nam, chỉ trong năm 2020, các cơn bão và lũ lụt đã gây thiệt hại khoảng 36.000 tỷ đồng (tương đương 1,5 tỷ USD), làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hàng triệu người dân. Đặc biệt là cơn bão số 3 vừa qua như đã nói ở trên.

Khi bão lũ qua đi, vai trò quan trọng của rừng và mảng xanh trong việc chống đỡ các hiện tượng thiên tai càng được khẳng định. Mỗi ha rừng phòng hộ có thể giảm thiểu tác động của lũ lụt đến 20% và giảm nguy cơ xói mòn đất lên tới 40%. Các khu rừng, đặc biệt là rừng đầu nguồn và rừng ngập mặn, đóng vai trò như một lớp lá chắn, giảm thiểu sự tàn phá của gió bão, giữ đất không bị cuốn trôi, và duy trì nguồn nước ngọt cho các khu vực đồng bằng.

Việt Nam đã chứng kiến những trận bão lụt có sức tàn phá lớn trong những năm gần đây, gây thiệt hại lên tới hàng tỷ USD. Ảnh nguồn internet

Rừng đầu nguồn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết nguồn nước, giúp lưu trữ nước vào mạch nước ngầm. Khi có mưa rơi xuống, một lượng nước được ngấm vào đất, một phần bốc hơi trở lại không khí. Phần nước còn lại sẽ tạo thành dòng chảy, từ đó tạo thành suối, đổ ra sông và cuối cùng đi ra biển.

Tại những khu vực thượng nguồn có nhiều cây xanh, nước mưa rơi xuống sẽ được giữ lại bởi tán lá. Một lượng nước lớn cũng sẽ được bốc thoát vào không khí do quá trình bốc hơi nước vật lý và thoát hơi nước sinh học của cây. Điều này giúp giảm lượng nước nhập vào dòng chảy bề mặt, tạo ra lũ lụt. Khu rừng đầu nguồn với các loài gỗ lớn có khả năng thấm hút cao và thảm thực vật dày giúp cản trở dòng nước.

Khi xảy ra mưa lớn thì rừng đầu nguồn có vai trò vô cùng quan trọng giúp giữ nước, tạo dòng chảy ngầm. Lượng nước mưa rơi xuống chảy ra khỏi rừng chỉ có từ 3% đến 34%. Khi mưa lớn ở đầu nguồn, vượt quá khả năng thẩm thấu của đất. Nếu không có rừng đầu nguồn, dòng chảy với lưu lượng nước lớn sẽ hình thành, gây ra lũ lụt, thậm chí lũ quét. Rừng đầu nguồn với hệ thống rễ cây chằng chịt còn giúp giữ đất, giảm xói mòn và do vậy có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại thiên tai lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất.

Tuy nhiên, việc chặt phá rừng, khai thác quá mức và thiếu ý thức bảo vệ rừng đã làm giảm mạnh khả năng tự nhiên của môi trường trong việc chống lại bão lụt. Một nghiên cứu của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) cho thấy rằng việc phục hồi các khu vực rừng bị tàn phá có thể giảm thiểu thiệt hại do thiên tai đến 25% trong những năm đầu sau phục hồi.

Phục hồi rừng và phát triển mảng xanh là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tái tạo môi trường và khắc phục hậu quả thiên tai. Việc này không chỉ giúp phục hồi các hệ sinh thái đã bị tàn phá mà còn tạo ra những tác động lâu dài trong việc bảo vệ đất đai, điều tiết nước và cải thiện chất lượng không khí.

Theo báo cáo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), mỗi 1 USD đầu tư vào phục hồi rừng có thể tạo ra lợi ích môi trường trị giá đến 10 USD, đồng thời tạo ra việc làm và thu nhập cho cộng đồng địa phương. Trong chương trình/dự án chuyển đổi 50.000 ha rừng nghèo ở Gia Lai, đã làm thiệt hại hàng chục ngàn ha rừng khộp. Điều cần thiết hiện nay là phải có sự nghiên cứu khoa học để trồng cây thay thế.

Sự tham gia của các doanh nghiệp vào quá trình phục hồi rừng là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính bền vững của các dự án này (ảnh minh họa)

Tuy nhiên, để phục hồi rừng hiệu quả, việc lựa chọn nguồn giống cây trồng phù hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng của từng khu vực là vô cùng quan trọng. Sự tham gia của các doanh nghiệp vào quá trình phục hồi rừng là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính bền vững của các dự án này. Các doanh nghiệp không chỉ có thể cung cấp nguồn tài chính mà còn có thể đưa ra các sáng kiến xanh, như xây dựng chuỗi cung ứng bền vững, sử dụng nguyên liệu tái tạo, hoặc đầu tư vào công nghệ xanh giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), đầu tư vào các dự án phục hồi rừng và bảo vệ tài nguyên nước không chỉ giúp tăng trưởng xanh mà còn tạo ra việc làm và cải thiện cuộc sống cho hàng triệu người. Ví dụ, dự án trồng rừng tại tỉnh Quảng Nam đã tạo ra 5.000 việc làm mới và giúp cải thiện chất lượng môi trường sống cho cộng đồng địa phương.

Bên cạnh nỗ lực phục hồi rừng, việc bảo tồn và phục hồi nguồn tài nguyên nước cũng cần được chú trọng. Các chương trình phục hồi nguồn nước không chỉ giúp đối phó với các tác động của biến đổi khí hậu mà còn đảm bảo rằng vòng tuần hoàn nước trong tự nhiên được duy trì.

Theo một nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Phát triển Bền vững (CRED), việc đầu tư vào hệ thống thu gom và tái sử dụng nước mưa có thể giảm thiểu khoảng 40% lượng nước thải và giúp bảo vệ nguồn nước ngầm hiệu quả. Tỉnh Gia Lai hiện có 352 công trình thủy lợi kiên cố (8 công trình thủy lợi được đầu tư xây dựng mới trong giai đoạn 2015 - 2020). Đó là sự cố gắng lớn của một tỉnh chưa giàu như Gia Lai.

Sự tham gia của doanh nghiệp vào các chương trình nói trên có thể bao gồm đầu tư vào các công nghệ lọc nước, hệ thống thu gom và tái sử dụng nước mưa, cũng như các dự án xây dựng hồ chứa và bảo vệ nguồn nước ngầm. Các dự án như vậy không chỉ giúp bảo vệ nguồn nước cho tương lai mà còn tạo ra các mô hình phát triển bền vững, trong đó bảo vệ môi trường đi đôi với lợi ích kinh tế.

Theo số liệu từ Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường Việt Nam (ESTI), sự hợp tác giữa doanh nghiệp và cộng đồng trong các chương trình phục hồi nguồn nước đã giúp cải thiện chất lượng nước cho hơn 2 triệu người và bảo vệ 15.000 ha đất ngập nước trong vòng 5 năm gần đây.

Nỗ lực phục hồi rừng và bảo vệ tài nguyên nước tạo ra những cơ hội kinh tế mới, từ phát triển du lịch sinh thái. Ảnh: Phan Nguyên

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng, việc bảo tồn tài nguyên nước và phục hồi mảng xanh là một hướng đi bền vững nhằm giảm thiểu tác động của thiên tai. Tuy nhiên, để đạt được sự phát triển bền vững thực sự, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan, từ chính phủ, doanh nghiệp đến cộng đồng địa phương.

Nỗ lực phục hồi rừng và bảo vệ tài nguyên nước không chỉ giúp đối phó với biến đổi khí hậu mà còn tạo ra những cơ hội kinh tế mới, từ phát triển du lịch sinh thái, sản xuất nguyên liệu bền vững đến phát triển công nghệ xanh.

Đây là một cách tiếp cận toàn diện, trong đó phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường không loại trừ lẫn nhau mà có thể cùng tồn tại và hỗ trợ lẫn nhau. Trong tương lai, sự kết hợp giữa các giải pháp công nghệ, sự tham gia của doanh nghiệp và nỗ lực cộng đồng sẽ tạo ra một mô hình phát triển bền vững, góp phần bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động của thiên tai. Chỉ khi tất cả các bên cùng nhau chung tay, chúng ta mới có thể bảo vệ được tài nguyên thiên nhiên quý giá và đảm bảo một tương lai xanh cho thế hệ sau.

Có thể bạn quan tâm