Huyện Chư Prông hiện có hơn 15 ngàn ha cà phê, trong đó, hơn 14.328 ha cà phê đang trong thời kỳ kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, thời gian qua, UBND huyện đã chỉ đạo Phòng Nông nghiệp và PTNT phối hợp với các địa phương hướng dẫn người dân canh tác cà phê theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường áp dụng khoa học công nghệ và chế biến sâu để tăng giá trị sản phẩm.
Đặc biệt, huyện đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân tái canh đối với diện tích cà phê già cỗi, cho năng suất thấp để nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ông Lưu Hoài Hưng-Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện-cho biết: Hàng năm, UBND huyện thành lập đoàn liên ngành để kiểm tra các cơ sở gieo ươm và kinh doanh cây giống cà phê trên địa bàn.
Bên cạnh đó, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện hỗ trợ cây giống chất lượng cao để người dân tái canh. Chỉ tính riêng giai đoạn 2021-2024, từ nguồn ngân sách huyện cấp, Trung tâm đã cấp trên 146 ngàn cây giống và hỗ trợ người dân mua hơn 20 ngàn cây giống chất lượng cao với giá thấp hơn thị trường 1.000 đồng/cây để tái canh diện tích cà phê già cỗi.
Ngoài ra, Trung tâm cũng cử cán bộ hướng dẫn người dân chăm sóc cà phê theo các quy trình sản xuất nông nghiệp tốt để đảm bảo hiệu quả bền vững. Đến nay, nhiều diện tích tái canh đã cho thu hoạch, năng suất đạt 4-4,5 tấn nhân/ha, cao hơn 1-1,5 tấn nhân/ha so với khi chưa tái canh.
Dẫn chúng tôi tham quan một số vườn cà phê trên địa bàn, ông Đào Quang Bình-Chủ tịch UBND xã Ia Phìn-cho hay: Toàn xã có hơn 1.835 ha cà phê. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, những năm gần đây, người dân bắt đầu tái canh dần những vườn già cỗi, cho năng suất thấp. Việc tái canh gặp nhiều thuận lợi nhờ được huyện cấp hoặc hỗ trợ về giá mua cây giống chất lượng cao.
Bên cạnh đó, UBND xã cũng cử công chức Nông nghiệp phối hợp với Hội Nông dân xã hướng dẫn kỹ thuật cho người dân tái canh. Từ năm 2017 đến nay, người dân đã tái canh và ghép cải tạo được hơn 500 ha cà phê, chủ yếu là các giống: Thiện Trường, xanh lùn, TRS1. Theo khảo sát vào cuối năm 2024, năng suất cà phê tái canh đạt trung bình hơn 4 tấn nhân/ha.
Tương tự, ông Trịnh Quốc Thanh-Chủ tịch UBND xã Ia Drang-thông tin: Toàn xã có hơn 865 ha cà phê. Mỗi năm, người dân tái canh được 40-80 ha, chủ yếu là các giống: TR4, TRS1, xanh lùn, Thiện Trường. Các giống này kháng bệnh tốt và cho năng suất cao. Năng suất vườn cà phê tái canh đạt 4-4,5 tấn nhân/ha, góp phần nâng năng suất cà phê bình quân của xã lên gần 4 tấn nhân/ha.
Ông Siu Plun (làng Xung Beng, xã Ia Drang) cho hay: “Gia đình tôi có 1 ha cà phê trồng từ năm 2003 nên năng suất thấp. Được huyện hỗ trợ 500 cây giống TRS1, năm 2020, tôi quyết định tái canh 5 sào cà phê. Sau tái canh, cây cà phê ít bị sâu bệnh nên đỡ tốn chi phí mua thuốc bảo vệ thực vật. Hơn nữa, giống TRS1 cho năng suất cao. Năm 2024, tôi thu được 2 tấn nhân từ 5 sào cà phê tái canh, cao hơn 1 tấn nhân so với 5 sào chưa tái canh”.
Còn ông Kpă Ngao (làng Xung Beng) thì bộc bạch: “Trước đây, 4,2 sào cà phê của gia đình thu được chưa đến 1 tấn nhân/vụ. Năm 2019, được xã hướng dẫn, tôi mua 420 cây giống cà phê TRS1 về tái canh. Đến năm 2023, vườn cây cho thu hơn 1 tấn nhân, bán được gần 100 triệu đồng, tôi đã trả hết các khoản đầu tư. Năm 2024, tôi thu được 1,5 tấn cà phê nhân. Với giá bán 130,5 ngàn đồng/kg, tôi thu trên 195 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi hơn 150 triệu đồng”.
Trao đổi với P.V, ông Nguyễn Văn Luyến-Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện-cho biết: Theo kế hoạch, giai đoạn 2021-2025, toàn huyện tái canh 1.438 ha cà phê. Đến nay, huyện đã tái canh được 558 ha, đạt 38,8% kế hoạch. Nguyên nhân là vì giá cà phê trong thời gian qua liên tục tăng cao nên người dân chậm tái canh mà tiếp tục đầu tư để có thu nhập. Qua theo dõi, diện tích cà phê tái canh phát triển tốt, cho năng suất cao, góp phần nâng năng suất cà phê của huyện lên 3,1 tấn nhân/ha.
“Thời gian tới, huyện tiếp tục vận động người dân tái canh những vườn cà phê già cỗi. Ngoài ra, huyện cũng sẽ tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật, vận động người dân áp dụng tưới tiết kiệm nước để thích ứng với biến đổi khí hậu và từng bước chuyển đổi sang sản xuất theo các tiêu chuẩn gắn với xây dựng mã số vùng trồng, chuỗi liên kết để đảm bảo thuận lợi cho đầu ra sản phẩm”-ông Luyến thông tin thêm.