(GLO)- Bên cạnh cồng chiêng được làm bằng đồng, đồng bào các dân tộc vùng Trường Sơn-Tây Nguyên còn có những bộ cồng chiêng được làm bằng chất liệu khác nhau như cồng bạc (gong prăk), chiêng tre (ching kram) và đặc biệt nhất là loại cồng được làm bằng đá, được xem là nhạc cụ bí ẩn, cổ xưa nhất của các tộc người.
Đàn đá Đak Kar của dân tộc Mnông. Ảnh: Tấn Vịnh |
Cho đến nay, người ta đã phát hiện ra cả chục bộ đàn đá ở nhiều địa bàn khác nhau, như: đàn đá Khánh Sơn (Khánh Hòa), Bác Ái (Ninh Thuận); bộ sưu tập đàn đá của các địa phương, như: Lộc Hòa, Di Linh, Bảo Lâm, Đà Lạt (Lâm Đồng), đàn đá Kdut Liêng Krak (Đak Lak), đàn đá Đak Kar (Đak Nông)...
Đàn đá Kdut Liêng Krăk được nhà dân tộc học người Pháp Georges Codominas tìm thấy tại làng Kdut Liêng Krăk vào ngày 5-2-1949. Nhà dân tộc học trẻ này đã tìm ra một công cụ bằng đá khổng lồ so với tất cả công cụ đá cổ tìm được xưa nay. Bộ đàn đá sau đó được gửi về Pháp để thẩm định. Lúc bấy giờ, với con mắt tinh đời của các chuyên gia hàng đầu thế giới về nhân chủng học, khảo cổ học, dân tộc học, âm nhạc học... bộ đàn đá Kdut Liêng Krăk đã được xác định là loại nhạc cụ thời tiền sử đầu tiên tìm được trên thế giới, có niên đại khoảng 3.000 năm. Hiện tại, bộ đàn đá này được trưng bày trong Bảo tàng Con người ở thủ đô nước Pháp.
Hiện nay, tỉnh Lâm Đồng là địa phương phát hiện và lưu giữ số lượng đàn đá nhiều nhất Việt Nam với tổng cộng 6 bộ sưu tập đàn đá có niên đại khoảng 3.500 năm đến 2.500 năm cách ngày nay. Bộ đàn đá ở Tòa Giám mục Đà Lạt gồm 7 thanh do giáo dân vùng Di Linh phát hiện và tặng cho các cha xứ ở Tòa Giám mục từ trước năm 1975. Đàn đá B’lao gồm 6 thanh do ông Kboih, dân tộc Mạ ở huyện Bảo Lâm cất giữ, bộ đàn đá này được công nhận là đàn đá quốc gia vào năm 1980.
Đàn đá Đình Lạc gồm 12 thanh chia thành 2 bộ khác nhau được phát hiện vào năm 1997 tại huyện Di Linh, được giám định và công nhận vào năm 2000, có niên đại khoảng 3.000 năm đến 2.500 năm cách ngày nay. Đàn đá Bờ Nơm phát hiện vào năm 2003 tại xã Sơn Điền, huyện Di Linh, gồm 20 thanh có độ dài ngắn khác nhau. Đàn đá Hòa Nam gồm 47 thanh cũng được phát hiện ở xã Hòa Nam, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ sưu tập đàn đá có số lượng lớn nhất từ trước đến nay. Đà đá Liên Đầm gồm 23 thanh, phát hiện năm 2008 tại xã Liên Đầm, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
Lễ hội trước nhà làng Cơ Tu. Ảnh: Tấn Vịnh |
Liên tục các năm sau, nhiều bộ đàn đá khác được tìm thấy ở hầu khắp Tây Nguyên như đã nêu trên, nhưng nổi bật nhất là bộ đàn đá Đak Kar (Đak Nông). Người Mnông đi đánh cá phát hiện được bộ đàn đá dưới lòng suối Đak Kar. Họ tò mò đem lên bờ gõ thử thì âm thanh của bộ đàn đá rất giống với âm thanh của bộ cồng 3 chiếc của mình. Thấy lạ, người ta mang về nhà cất, lâu lâu mang ra đánh và đặt tên là gong lu (cồng đá). Về sau, các nhà nghiên cứu đã khẳng định bộ cồng đá Đak Kar là loại đàn đá cổ xưa, có niên đại giống với bộ đàn đá Kdut Liêng Krăk. Bộ đàn đá Đak Kar hiện được trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Đak Nông.
Điều thú vị và kỳ diệu nhất là thang âm của những bộ đàn đá tiền sử hoàn toàn tương ứng với thang âm thanh cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên bây giờ. Từ nhạc đá, qua hàng nghìn năm, người Tây Nguyên đã chuyển sang nhạc đồng mà vẫn giữ cái hồn của âm thanh mộc mạc của thời tiền sử. Bằng chứng sinh động nhất là bộ cồng đá Đak Kar tương ứng với bộ cồng 3 chiếc của dân tộc mình và đều được đặt tên chung cho cả 3 âm thanh trong biên chế của bộ cồng đá và cồng đồng là Tru, Trơ và Tê (Mẹ, Cha và Con). Trong giàn cồng chiêng Tây Nguyên, mỗi cái đều có tên riêng và bộ cồng chiêng 3 cái cũng có tên riêng và đặc biệt là chúng thường mang tên Mẹ, Cha và Con. Theo Giáo sư Tô Ngọc Thanh thì biên chế 3 cồng này là cơ sở để thiết lập một biên chế lớn hơn trong một giàn chiêng và đây cũng là biên chế cổ xưa nhất của cồng chiêng Tây Nguyên như tên gọi mà đồng bào Bahnar đã đặt tên cho nó “Chêng Xo Xơh” (Cồng cổ xưa).
Người Cor ở Bắc Trà My cũng biết sử dụng đàn đá (wpau) gồm 7 chiếc trong lễ hội hoặc sinh hoạt, vui chơi của cộng đồng. Theo nhận định của một số người, đó chỉ là thanh đá được nhặt ngẫu nhiên ở sông suối về chứ không phải nhạc cụ của người tiền sử. Người Sê Đăng ở Nam Trà My cũng có nhạc cụ đàn đá (chíc hmô) được một số nghệ nhân diễn tấu giống như cồng chiêng. Trong khi các nhạc cụ đàn đá ở Tây Nguyên được các nhà âm nhạc, khảo cổ học, dân tộc học nghiên cứu từ lâu thì các nhạc cụ đàn đá ở Quảng Nam vẫn chưa có ai quan tâm.
Nhiều tộc người ở khu vực Trường Sơn-Tây Nguyên cho đến nay vẫn còn sử dụng đàn đá, xem là báu vật của tổ tiên mình. Khi đưa bộ cồng đá về làng, họ đánh cồng đá giống như cách diễn tấu cộng đồng. Đó là những âm thanh quen thuộc trong các lễ cầu cúng tín ngưỡng nguyên thủy và các lễ hội khác của cộng đồng như mừng được mùa, săn bắt, hái lượm, trồng trọt...
Tấn Vịnh