Bạn đọc

Luật sư Bùi Thanh Vũ tư vấn pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- * Bạn đọc N.T.T. hỏi: Tôi và chồng tôi đã nộp đơn ly hôn. Trong khi chờ tòa án giải quyết, do khó khăn về chỗ ở nên tôi vẫn ở tại căn nhà chúng tôi đang sinh sống. Căn nhà này do cha mẹ chồng cho riêng chồng tôi.

Nay cha mẹ chồng tôi biết việc chúng tôi nộp đơn ly hôn nên yêu cầu chồng tôi buộc tôi phải chuyển ra khỏi nhà. Vậy pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?

- Luật sư Bùi Thanh Vũ-Trưởng Văn phòng Luật sư Vinh Phú kiêm Trưởng Chi nhánh Gia Lai-trả lời:

Khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”.

Khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về định đoạt tài sản riêng sau ly hôn như sau: “Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của luật này”.

Như vậy, căn nhà này chồng bạn được tặng cho riêng. Nếu không có thỏa thuận nhập vào tài sản chung thì căn nhà là tài sản riêng của chồng bạn. Sau ly hôn, căn nhà vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của chồng bạn.

Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền sở hữu quy định:

“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”.

Nghĩa là, chồng bạn có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản riêng là căn nhà này. Nói cách khác, chồng bạn có quyền quyết định cho hoặc không cho bạn tiếp tục ở lại căn nhà này.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình về quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn:

“Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.

Còn theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về thời điểm chấm dứt hôn nhân và trách nhiệm gửi bản án, quyết định ly hôn thì: “Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật”.

Hiện nay, vợ chồng bạn chỉ mới nộp đơn ly hôn và chưa được tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nên về mặt pháp lý vẫn còn quan hệ vợ chồng. Vì vậy, theo quy định tại Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng:

“Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng”.

Theo các quy định nêu trên thì cho dù căn nhà là tài sản riêng của chồng bạn, nếu là chỗ ở duy nhất của vợ chồng thì trong thời kỳ hôn nhân, chồng bạn có quyền định đoạt nhưng phải đảm bảo chỗ ở cho vợ chồng; sau khi ly hôn thì phải đảm bảo cho bạn được quyền lưu cư trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Có thể bạn quan tâm