Phóng sự - Ký sự

Về một người anh hùng của trận đánh Khe Sanh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

“Đánh giặc xong là về nhà thôi. Tôi không nghĩ mình sẽ là anh hùng”. Ông Nguyễn Văn Nhương (quê ở xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) nói chân thành như vậy khi nhìn lại cuộc đời gần 30 năm binh nghiệp của mình. Ông Nhương đã tham gia 175 trận đánh, bắn rơi 13 máy bay, diệt 2 xe tăng và 54 tên địch, trong đó có chiến công tại sân bay Tà Cơn, góp công vào chiến thắng Khe Sanh lịch sử.

40 ngày đêm không ngưng tiếng súng

 

Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, Ủy viên TW Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho ông Nguyễn Văn Nhương.

Năm 1965, mới 17 tuổi, Nguyễn Văn Nhương đã nộp đơn “Xin được cầm súng vào Nam đánh giặc”. Ông nhớ lại, cả 2 lần khám tuyển, ông đều bị loại vì quá thấp bé, không đủ cân. Nhưng với sự quyết tâm, cuối cùng ông cũng thuyết phục được hội đồng khám tuyển.

Sau 3 tháng huấn luyện, đầu năm 1966, chiến sĩ Nguyễn Văn Nhương được biên chế về đại đội súng máy 12,7 ly của Đoàn Hoa Lư, tỉnh Thanh Hóa lúc bấy giờ. Nhiệm vụ chính của đơn vị ông là bảo vệ các cây cầu ở Thanh Hóa quê ông, trong đó có cầu Hàm Rồng huyền thoại. Đến đầu năm 1967, ông cùng đơn vị hòa vào đoàn quân Nam tiến để bắt đầu những trận đánh mới cùng với cuộc chiến hào hùng của cả dân tộc.

Lần nào trò chuyện với chúng tôi, ký ức của những trận đánh năm nào lại dội về trong ông như không bao giờ vơi cạn. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, có tổng số 175 trận đánh mà ông đã góp sức vào những chiến công chung của đồng đội. Nhưng đậm sâu nhất, thể hiện sự dũng cảm, mưu trí nhất, làm nên kỳ tích vang dội của người anh hùng này có lẽ là gần 40 ngày đêm không ngưng tiếng súng của tháng 3 năm 1968 ở trận địa sân bay Tà Cơn trong chiến thắng Khe Sanh lịch sử.

Sân bay Tà Cơn (thuộc xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị hiện nay) là một trong những căn cứ điểm quân sự chiến lược của quân đội Mỹ trong những năm 1966 -1968 tại chiến trường Khe Sanh. Toàn sân bay Tà Cơn giống như một lòng chảo với bốn bề là núi non trùng điệp. Đây như là một pháo đài bất khả chiến bại với những điểm đặt hệ thống hỏa lực lý tưởng, cách với con đường 9 huyết mạch chưa đầy 3km. Nhưng trước sức mạnh của cuộc tiến công giải phóng Khe Sanh của Quân đội Nhân dân Việt Nam từ tháng 2 đến tháng 7.1968, nơi đây đã trở thành chiếc ghế điện đối với liên quân của đối phương.

Một ngày bắn rơi 3 máy bay

 

Anh hùng Nguyễn Văn Nhương (người đứng) nói chuyện với Đảng ủy Sư đoàn 9, Quân đoàn 4.

Anh hùng Nguyễn Văn Nhương nhớ lại, trong chiến dịch đánh chiếm sân bay Tà Cơn năm ấy, lúc đầu, đơn vị bố trí khẩu đội pháo 12,7 ly cách sân bay trên 1.000m. Qua thực tiễn những trận đánh trước đó, ông cho rằng, nếu đặt xa như vậy sẽ không hiệu quả và chỉ bắn được những máy bay ở trên cao nên ông đã mạnh dạn đề xuất với chỉ huy đưa pháo vào cách sân bay 100m.

Thấy nguy hiểm nên đơn vị không đồng ý với đề xuất của ông nhưng sau rất nhiều lần thuyết phục, với sự quyết tâm cao độ, đề xuất của ông được chỉ huy chấp thuận. Theo ông, nếu đặt pháo ở sát đường băng thì khi máy bay lên cũng bắn được mà máy bay xuống cũng bắn được. Hiệu quả quá bất ngờ khi ngay ở trận đầu này, đơn vị của ông đã bắn rơi 17 chiếc máy bay trực thăng hiệu HU1A của địch, một chiến công vang dội trên bầu trời Khe Sanh-Quảng Trị khi ấy.

Trong 17 chiếc máy bay của địch bị bắn rơi ở trận này, riêng Nguyễn Văn Nhương bắn rơi 7 chiếc, trong đó có ngày ông bắn rơi 3 chiếc. Sau trận đánh này, toàn đơn vị đã phát động phong trào sâu rộng học tập, noi gương sự mưu trí, dũng cảm của chiến sĩ Nguyễn Văn Nhương và đặt cho ông cái tên: “Người chiến sĩ kiên trung”. Tuy nhiên, đơn vị thiệt hại khá lớn về người và vũ khí. Mặc dù anh em đơn vị bị thương nhiều nhưng ông vẫn ngày đêm quyết không rời trận địa.

Ông tâm sự: “Khi ấy, giữa cái sống và chết rất mong manh nhưng mình thầm nhủ là phải giữ trọn lời thề trước đảng kỳ khi ra trận là: “Còn người, còn vũ khí là còn trận địa”. Nếu rút thì địch sẽ giết hết”. Chính vì có Nguyễn Văn Nhương quả cảm, gan dạ nên đại đội của ông luôn đứng vững và chiến thắng trước mưa bom, bão đạn của quân thù.

Ông kể: Ngày 22.2.1968, Đại đội súng máy 12,7 ly cùng một số phân đội DKZ và bộ binh áp sát sở chỉ huy của Lữ đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ, bao vây với mục tiêu phá hủy hoàn toàn sân bay Tà Cơn, cắt đứt đường tiếp tế hàng không của địch. Riêng khẩu đội do ông là xạ thủ số 1 nằm sát sân bay Tà Cơn, chỉ cách vài chục mét, có nhiệm vụ bắn trực tiếp không cho địch tiếp tế quân lương.

Đối phương coi khẩu đội này là cái gai trong mắt chúng, cần phải nhổ bỏ và chúng dùng B52, B57 trút xuống, rồi hàng chục xe tăng, xe bọc thép liên tục phản kích vào các trận địa của ta. Không hề nao núng, ông cùng đồng đội sử dụng các hỏa lực DKZ, cối 81, 82 đánh tan các cuộc phản kích của chúng.

Phát hiện ra trận địa của ta, đối phương tập trung hỏa lực, huy động máy bay thả bom. Một quả bom rơi sát trận địa làm cho một số đồng chí trong khẩu đội của ông bị thương. Bản thân ông cũng bị thương nặng nhưng vẫn cố bám trận địa. Lúc này, cơ số đạn còn rất ít, trong lúc đó máy bay địch lại liên tục quần thảo, rải bom, bắn phá. Ông đã nảy ra sáng kiến tháo rời băng đạn để không bắn liên thanh, mà bắn tỉa từng phát một, tiết kiệm đạn. Với số đạn ít ỏi, một mình ông đã bắn rơi 3 chiếc máy bay của địch rồi tự xé áo băng vết thương cho mình và đồng đội để tiếp tục chiến đấu.

hiến thắng Tà Cơn của ông cùng đồng đội đã góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta ở mặt trận đường 9 Khe Sanh, gắn chặt với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, góp phần quan trọng buộc Mỹ phải rút thang trút gánh nặng xuống chính quyền Sài Gòn, ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào vòng đàm phán Paris, khởi đầu một quá trình thất bại về chiến lược của Mỹ đối với chiến tranh tại Việt Nam.

Vẫn ấm nóng “Bộ đội Cụ Hồ”

 

Anh hùng Nguyễn Văn Nhương (thứ 2 bên phải ) cùng vợ (bên trái) và hai Trung tướng là đồng đội Nguyễn Đức Xê và Dương Thái.

Rời chiến trường Khe Sanh, ông tiếp tục trong cuộc hành quân bất tận của cả dân tộc vào Nam chiến đấu cùng đơn vị, Nguyễn Văn Nhương luôn thể hiện là người chiến sĩ đi tiên phong, sẵn sàng đối mặt với hiểm nguy nhưng luôn trong tâm thế của một người lính chiến đấu. Đầu tháng 8.1968 ông cùng đơn vị tham gia trận đánh Sở chỉ huy Chi khu Đăk Lập – Đăk Min, tỉnh Đăk Lăk.

Khi đang chỉ huy chiến đấu, hầm sập, ông bị thương đến bất tỉnh phải đưa về tuyến sau cấp cứu nhưng đi được nửa đường, tỉnh lại ông ra lệnh cho đồng đội quay trở lại tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Cuối năm 1968, ông chỉ huy đơn vị trực tiếp cho bộ binh tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn Không vận Mỹ ở Sóc Trăng, diệt 70 xe cơ giới của Mỹ, sau đó tiến công tiêu diệt các tiểu đoàn quân Mỹ ở mặt trận Lộc Ninh (Bình Phước).

Năm 1970, đơn vị của ông được giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch ở Đông Bắc (Campuchia), trong đó có trận đánh ở Đầm Be. Địch dùng xe tăng, máy bay, bộ binh và các loại  hỏa lực hòng san bằng trận địa của ta, song ông đã linh hoạt sử dụng súng 12,7 ly cùng súng bộ binh, B40, lựu đạn để chiến đấu chống trả các đợt phản công của địch. Đặc biệt, khi xe tăng địch tiến gần, ông đã dũng cảm ôm mìn chống tăng bò ra khỏi hầm lăn mìn vào xích xe tăng, làm cháy chiếc xe tăng chạy trước, sau đó ông quay trở lại hầm bình tĩnh sử dụng quả súng cối 40 ly cuối cùng bắn cháy tiếp chiếc xe tăng thứ 2, rồi sử dụng súng bộ binh, lựu đạn tiêu diệt bộ binh địch.

Cuối năm 1972, ông được cử ra Bắc đào tạo cán bộ Chính trị ở Học viện trung-cao cấp. Năm 1973, ông được điều động làm chính trị viên Tiểu đoàn 22 (Quân khu 4). Sau đó, vẫn trên cương vị chính trị viên Tiểu đoàn 22, ông được tăng cường vào Tây Nguyên cho đến ngày đất nước hoàn toàn giải phóng.

Hơn 40 năm qua, cựu chiến binh Nguyễn Văn Nhương lặng lẽ, âm thầm sống và làm việc ở thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai với một cuộc sống bình dị, yên ấm và hạnh phúc. Ông đã kinh qua nhiều công việc ở địa phương nhưng bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong ông vẫn luôn tròn đầy, ấm nóng.

Chia tay anh hùng Nguyễn Văn Nhương trên phố núi Pleiku thân yêu, ông khẽ hát cho chúng tôi nghe bài hát “Tiếng hát trên đường quê hương” của nhạc sĩ Huy Thục viết về chiến thắng Khe Sanh - Đường 9 năm xưa: “… Trên đường 9 giờ em đi giặc sợ giặc lo. Trên đường đó, đường em đi chiến công từng ngày. Gùi trên vai đi chiến trường, qua Cam Lộ, em về Cù Dinh, nơi miền quê chiến thắng còn nghe tiếng ca rộn ràng”… mà càng thấy yêu thêm đất trời Quảng Trị quê hương.

Nguyễn Ngọc Diễm/laodong

Có thể bạn quan tâm