Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4/3 đến 3/4/1975) - đòn chiến lược mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 của quân và dân ta giành thắng lợi, đã tạo nên bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Chiến thắng mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam để quân và dân ta thực hiện các đòn tiến công quân sự lớn, phát triển cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên có tầm quan trọng về chiến lược, có giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Sự lãnh đạo đúng đắn, tài thao lược của Đảng
Sau những thất bại liên tiếp trên các chiến trường, đặc biệt là thất bại trong cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm cuối năm 1972 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền Bắc, không còn con đường nào khác, đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27/1/1973).
Tuy nhiên, sau Hiệp định, đế quốc Mỹ vẫn ngầm viện trợ quân sự và hối thúc chính quyền ngụy phá hoại Hiệp định Paris, âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Chúng sử dụng chính quyền và quân đội Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tiến hành chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”, buộc quân và dân ta phải đánh trả để bảo vệ vùng giải phóng, giữ vững hiện trạng.
Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương, khóa III (tháng 10/1973) họp, ra nghị quyết nêu rõ: “Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.”
Theo đó, từ cuối năm 1973 đến 1974, tất cả các chiến trường trên toàn miền Nam đã chuyển sang phản công và tiến công kiên quyết, đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân của địch; từng bước đẩy lùi địch về thế phòng ngự bị động, lâm vào thế khó cả về tác chiến và xây dựng lực lượng.
Đến tháng 10/1974, Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ cấp bách lúc này là: động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng...
Ngay từ giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975-1976.
Đầu tháng 1/1975, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương họp, hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 và nếu có thời cơ thì giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Sau đó, theo dõi sự phát triển mau lẹ của tình hình, khi thời cơ mới xuất hiện, Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã chuyển kế hoạch cơ bản giải phóng miền Nam từ hai năm (1975-1976) lúc đầu, sang kế hoạch rút xuống còn một năm rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa năm 1975.
Chủ động, tích cực làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt cho Chiến dịch
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam trong năm 1975, Bộ Chính trị, trực tiếp là Quân ủy Trung ương đã quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A 275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức, thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường toàn miền Nam.
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
Chọn Tây Nguyên làm hướng mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 là do Tây Nguyên là nơi yếu nhất của địch. Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng điểm yếu cốt tử là nhiều núi cao hiểm trở, hệ thống giao thông kém phát triển, địch cơ động lực lượng chủ yếu dựa vào một số trục đường chính (14, 19, 21, 7...).
Khi các trục đường này bị cắt và “khóa chặt” thì Tây Nguyên bị cô lập, tách rời khỏi vùng đồng bằng Nam Trung Bộ và cả chiến trường miền Nam, duy nhất còn lại đường không để địch chi viện, ứng cứu.
Trong khi đó, ta hoàn toàn có đủ khả năng và điều kiện phát huy sở trường triển khai thế trận vận động tiến công tiêu diệt từng bộ phận lực lượng quân địch. Nếu ta làm chủ được Tây Nguyên sẽ khống chế được một vùng rộng lớn, bao gồm đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ, Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia, tạo được thế đứng chân vững chắc để phát triển thế tiến công xuống Sài Gòn-Gia Định; phát triển xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
Việc lựa chọn hướng mở đầu vào Tây Nguyên còn thuận lợi cho ta triển khai thế tiến công chiến lược.
Sau thắng lợi giải phóng tỉnh Phước Long, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương quyết định chọn hướng tiến công chính là Nam Tây Nguyên, mục tiêu chủ yếu, trận mở đầu là đánh và giải phóng Buôn Ma Thuột.
Quyết định này của Đảng được hình thành trên cơ sở phân tích khoa học so sánh thế và lực giữa ta và địch, xu thế phát triển của tình hình trong giai đoạn cuối cuộc chiến tranh, căn cứ vào sự bố trí lực lượng và âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ-ngụy trên chiến trường và kết quả công tác chuẩn bị của ta trong hai năm 1973-1974.
Chọn Nam Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch trong chiến tranh.
Cùng với đó, việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường được tiến hành khẩn trương. Tháng 6/1974, Đảng ủy Bộ Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên ra Nghị quyết xây dựng khối chủ lực Tây Nguyên thành binh đoàn chiến dịch, có khả năng tác chiến hiệp đồng binh chủng, có sức cơ động cao.
Về lực lượng, thành lập trung đoàn pháo binh ở các sư đoàn; lực lượng pháo binh của mặt trận được tổ chức thành 2 trung đoàn hoàn chỉnh; lực lượng phòng không được tổ chức lại thành 2 trung đoàn (234, 575); thành lập Trung đoàn Đặc công 198, Trung đoàn Xe tăng 273 và Trung đoàn Thông tin 29. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đặc biệt là thành lập một số quân đoàn chủ lực.
Về hậu cần, kỹ thuật, được tổ chức theo hướng bảo đảm khả năng tác chiến tập trung quy mô lớn, có sức cơ động cao, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu.
Cùng với đó, công tác huấn luyện được coi trọng kết hợp giữa tác chiến với luân phiên đưa bộ đội về phía sau để huấn luyện theo hình thức tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng.
Chiến dịch toàn thắng - bước ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh
Ngày 4/3/1975, sau một loạt hoạt động nghi binh, thu hút quân đội ngụy Sài Gòn lên hướng Pleiku, Kon Tum, Chiến dịch Tây Nguyên chính thức mở màn.
Từ ngày 4 đến 9/3, quân ta đánh cắt giao thông trên các đường số 19, 21, cô lập Tây Nguyên với vùng Duyên hải miền Trung, chia cắt đường số 14 để cô lập hai khu vực Bắc Tây Nguyên với Nam Tây Nguyên; tiến công lần lượt đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn, Đức Lập, cô lập triệt để Buôn Ma Thuột.
Thừa thắng, trong 2 ngày 10 và 11/3, quân ta tiến công, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, đánh thắng trận then chốt thứ nhất của Chiến dịch. Đây là trận then chốt quyết định của Chiến dịch, một trận “điểm đúng huyệt”, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở Tây Nguyên.
Tiếp đó, từ ngày 14 đến 18/3, ta đập tan cuộc phản kích của Sư đoàn 23 trong trận Nông Trại-Chư Cúc, thực hiện thắng lợi trận then chốt thứ hai.
Bị thất bại và trước sức uy hiếp mạnh mẽ của quân ta, từ ngày 15/3, quân địch rút khỏi Kon Tum, Pleiku theo đường số 7 hòng co cụm về vùng đồng bằng ven biển Khu 5.
Không bỏ lỡ thời cơ, bộ đội ta truy kích, tiêu diệt quân địch rút chạy trên đường số 7, giành thắng lợi trong trận then chốt thứ ba… ; giải phóng Kom Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên.
Sau khi làm chủ Tây Nguyên (24/3), từ đầu tháng 4/1975, quân ta tiếp tục phát triển xuống Duyên hải Trung Bộ, tiêu diệt Lữ đoàn dù 3, Trung đoàn bộ binh 40, Liên đoàn biệt động quân 24, giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa.
Ngày 3/4/1975, Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc thắng lợi, ta đã tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2 - Quân khu 2 quân đội ngụy Sài Gòn, loại khỏi chiến đấu hơn 28.000 tên địch, thu và phá hủy 154 máy bay, 1.096 xe quân sự, 17.188 súng các loại...
Như vậy, bằng nghệ thuật tạo thế, nghi binh lừa địch, Chiến dịch Tây Nguyên đã tiêu diệt và làm tan rã một tập đoàn phòng ngự lớn, giải phóng một địa bàn quan trọng, uy hiếp trực tiếp tuyến phòng ngự ven biển miền Trung, mở đầu cho sự cáo chung của chế độ ngụy Sài Gòn.
Đặc biệt, trận then chốt đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột thắng lợi, góp phần làm thay đổi nhanh chóng cục diện chiến trường, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhanh chóng kết thúc thắng lợi.
Với ý nghĩa đó, Chiến dịch Tây Nguyên là đòn điểm huyệt quân đội ngụy Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975.
Có thể khẳng định, chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên, đòn điểm huyệt Buôn Ma Thuột thể hiện sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng mà cụ thể là sự chỉ đạo của Bộ Tham mưu tối cao là Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương về tất cả các mặt, từ việc chọn chiến trường, thời điểm, chọn vị trí đột phá cho đến việc chớp thời cơ phát triển chiến dịch đến những thắng lợi tiếp theo to lớn hơn.
Chiến thắng của Chiến dịch Tây Nguyên là dấu ấn đậm nét trong dòng chảy lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới, đặc biệt là đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Theo Phương Dung (TTXVN/Vietnam+)