Một khảo cứu đặc sắc
Với sự tinh nhạy của người nghiên cứu lịch sử Việt Nam tại Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO), nhất là nghiên cứu về những cuộc di cư của người Việt, Giáo sư Andrew Hardy đã có những linh cảm đặc biệt về An Khê-vùng đất có vị trí vô cùng đặc biệt trong lịch sử mở cõi của người Việt.
Sách “Lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, 1864-1888” của giáo sư người Pháp vừa xuất bản là công trình khảo cứu đặc sắc về quá trình khai hoang và định cư vùng An Khê trong giai đoạn triều Nguyễn (1864-1888). Cuốn sách được các nhà sử học đánh giá là công trình khoa học đầu tiên cho giai đoạn lịch sử này.
Theo Giáo sư Andrew Hardy, quá trình khai khẩn cao nguyên An Khê vào cuối thế kỷ 19 được chia làm 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu (1864-1867) do Nguyễn Đức Thăng lãnh đạo chỉ khai hoang một số ruộng, thôn.
Tuy không thành công nhưng trong tấu chương của quan lại gửi về triều đình năm 1869 có báo cáo khá chi tiết về vùng đất An Khê: “…nhân sĩ trong địa phương kể lại rằng tại hạt này từ An Khê là ấp cũ của nhà Tây Sơn ngược trở lên có một vùng đất bình nguyên hoang dã rất rộng lớn, thả tầm mắt nhìn xa hàng nghìn dặm mà không hết. Nếu bỏ sức ra khai khẩn thì có thể thành lập đất đai của một tỉnh…
Đêm ra hỏi các vị nhân sĩ hào mục thì nhiều người đều bảo chất đất ở đó rất màu mỡ, duy chỉ có điều là chướng rất nặng nề, dân cư thưa thớt, tài lực thiếu thốn nên đành chịu để thế. Nếu muốn cải tạo khai thác vùng đất ấy thì cần phải có người thành thạo công việc” (Trần Hy Tăng, Châu bản triều Nguyễn, 1869).
Đợt di dân đầu tiên cũng là cơ sở cho những đợt di dân tiếp theo lên cao nguyên An Khê trong hành trình mở cõi về phương Nam. Theo khảo cứu của Giáo sư Andrew Hardy, đợt thứ hai (1870-1872) do Đặng Duy Hạnh lãnh đạo cũng không thu được kết quả như kỳ vọng.
Đến đợt di dân thứ ba (khoảng 1877-1885) do Phan Văn Điển lãnh đạo là thành công nhất. Trong giai đoạn này, đã có 854 mẫu ruộng được khai khẩn, 590 gia đình định cư trong 30 thôn. Cảnh quan cao nguyên An Khê đến đây đã thay đổi về căn bản với những cánh đồng màu mỡ, những thôn xóm tươi mới chạy dọc đôi bờ sông Ba vào đến tận chân núi.
Chia sẻ trong buổi tọa đàm, giới thiệu sách tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai mới đây, Giáo sư Andrew Hardy cho biết: Để có được những tư liệu chính xác, khách quan, thuyết phục về bối cảnh lịch sử khai khẩn cao nguyên An Khê, ông đã dành công sức trong suốt nhiều năm cho những cuộc điều tra thực địa; trao đổi với các học giả nghiên cứu về An Khê, đặc biệt là dựa trên 50 tài liệu Châu bản triều Nguyễn mà ông tìm thấy khi “cày xới” các kho lưu trữ ở Việt Nam và Pháp.
Tìm lại lịch sử
Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc-Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, người làm cầu nối cho Andrew Hardy đến với An Khê-cho biết: Châu bản triều Nguyễn là tài liệu vô cùng đặc biệt, là tập hợp công văn, giấy tờ được báo cáo với nhà vua và được đích thân vua xem xét, ngự phê bằng mực son. Đây là tài liệu nguyên gốc, độc bản, vô cùng quý giá.
“Trong nghiên cứu lịch sử, chúng tôi coi tài liệu nguyên gốc này có giá trị lịch sử cao nhất, chính xác và tin cậy nhất. Dựa vào những tài liệu nguyên bản này, tác giả Andrew Hardy có những nhận xét, đánh giá khách quan về bối cảnh lịch sử của công cuộc khai khẩn cao nguyên An Khê”-ông Ngọc chia sẻ.
Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc cho biết ông kinh ngạc bởi số lượng Châu bản triều Nguyễn mà Andrew Hardy tìm thấy về An Khê.
“Cho đến nay, chúng tôi mới chỉ tìm thấy 18 Châu bản về Hoàng Sa, Trường Sa. Còn An Khê là một vùng đất không rộng lớn nhưng Giáo sư Andrew Hardy tìm thấy trên 50 tài liệu Châu bản. Điều đó cho thấy sự quan tâm đặc biệt của nhà nước phong kiến đối với vùng đất này.
Và do vậy, cuốn sách của Giáo sư không chỉ là công trình nghiên cứu đầu tiên về giai đoạn cuối thế kỷ XIX mà còn mở ra các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, thảo luận về vùng đất An Khê”-ông Ngọc nói.
Về tên tuổi Phan Văn Điển, trong lời bạt cuốn sách có nhan đề “Phan Văn Điển-Tên ông đã trở về với An Khê”, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân-nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai-nhấn mạnh: “Tác giả đã hiểu ra và làm rõ một sự thật lịch sử: Trong những năm tháng ấy, áp lực của thực dân Pháp ở phía Đông, phía Nam; sự lớn mạnh của Giáo phận Kon Tum ở phía Tây… chính là những động cơ đưa Phan Văn Điển vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để mang lại thành công cho công cuộc khai khẩn cao nguyên An Khê, củng cố một vùng biên cương phía Tây Tổ quốc.
Nhưng cùng với những biến cố lịch sử của dân tộc, cái tên Phan Văn Điển dần mờ theo thời gian. Tại đình An Lũy (An Khê trường)-nơi thờ anh em Tây Sơn và tiền hiền, hậu hiền, tên ông còn chưa được ghi. Xin đừng trách hậu thế, bởi người An Khê đã cất công đi tìm những ân nhân mở cõi của mình, nhưng có lẽ cơ duyên chưa đủ! Từ đây, tên ông đã trở về và có một vị trí xứng đáng trong lòng dân An Khê”.