Sức khỏe

Máu phụ nữ từng mang thai có thể giết chết đàn ông?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Nghiên cứu diện rộng của Hà Lan cho thấy nam giới có nguy cơ tử vong khi truyền máu cao hơn đến 26,4% nếu người cho máu là phụ nữ từng mang thai.

Tỉ lệ đáng giật mình này được đưa ra dựa trên nghiên cứu quy mô lớn của Tổ chức Sanquin Research, một ngân hàng máu và phòng thí nghiệm quốc gia về máu ở Hà Lan.

Các nhà khoa học đã sử dụng dữ liệu từ 31.111 nam bệnh nhân – những người đã nhận được 59.320 đơn vị máu tại 6 bệnh viện lớn ở Hà Lan từ năm 2005-2015. Trong đó, 3.496 người đã chết sau khi được cho máu.


 

Các kháng thể trong máu phụ nữ mang thai có thể giết chết đàn ông? - ảnh: REUTERS
Các kháng thể trong máu phụ nữ mang thai có thể giết chết đàn ông? - ảnh: REUTERS



Mỗi năm, trung bình cứ 1.000 người đàn ông được truyền máu hiến tặng từ đàn ông thì có 80 người chết. Trong đó, khoảng 78/1.000 người chết khi nhận được máu từ những phụ nữ chưa từng mang thai. Nếu nhận máu từ phụ nữ đang hoặc đã từng mang thai, có đến 101/1.000 người tử vong.

Như vậy, nguy cơ tử vong của đàn ông khi nhận được máu từ phụ nữ từng mang thai cao hơn 26,4% so với nhận máu từ phụ nữ chưa từng làm mẹ và cao hơn 24,8% so với nhận máu từ người đàn ông khác.

Với người nhận máu là phụ nữ, có khác biệt xảy ra nhưng không rõ ràng bằng nam giới. Có 74/1.000 người tử vong khi nhận máu của phụ nữ từng mang thai và 62/1.000 người tử vong khi nhận máu đàn ông.

Các nhà khoa học cho rằng "thủ phạm" chính của hiện tượng này là do các kháng thể được sinh ra trong máu những phụ nữ mang thai. Các kháng thể này có nhiệm vụ bảo vệ đứa bé nên đã tấn công "kẻ lạ mặt", tức người đàn ông nhận máu.

Ngoài ra, lượng sắt cao bất thường trong máu phụ nữ mang thai cũng có thể là nguyên nhân.

Lý do tử vong khi truyền máu thường gặp nhất là tổn thương phổi cấp. Tuy nhiên, cái chết sau khi nhận máu còn bao gồm bệnh cảnh của người cần được truyền máu thường là nặng, phải trải qua phẫu thuật lớn, mất nhiều máu…

Tiến sĩ Rutger Middelburg, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, cho rằng vẫn cần thêm nhiều khảo sát nữa để chứng minh rõ ràng hơn phát hiện này, vì đây mới chỉ là nghiên cứu dạng quan sát.

Nghiên cứu nêu trên vừa được công bố trên tạp chí khoa học Journal of the American Medical Association.

A. Thư (Theo Telegraph, Reuters)

Có thể bạn quan tâm