Kinh tế

Ngành nông nghiệp cả nước xuất khẩu đạt 51,74 tỷ USD trong 10 tháng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết, tổng kim ngạch xuất khẩu nông-lâm-thủy sản 10 tháng đạt 51,74 tỷ USD, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2023.

Cụ thể, theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, 10 tháng năm 2024, xuất khẩu nông-lâm-thủy sản cả nước đạt 51,74 tỷ USD, tăng hơn 20,2% so với cùng kỳ năm 2023; tổng kim ngạch nhập khẩunông-lâm-thủy sản đạt 36,53 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2023. Thặng dư 15,21 tỷ USD, tăng 62,2% so với cùng kỳ năm trước.

10-thang-nam-2024-xuat-khau-gao-duoc-gan-78-trieu-tan-va-kim-ngach-dat-486-ty-usd.jpg
10 tháng năm 2024, xuất khẩu gạo được gần 7,8 triệu tấn và kim ngạch đạt 4,86 tỷ USD

Trong số đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 27,38 tỷ USD, tăng 25,6%; sản phẩm chăn nuôi đạt 423,5 triệu USD, tăng 2,7%; thủy sản đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12%; lâm sản đạt 14,05 tỷ USD, tăng 19,9%; muối đạt 4,6 triệu USD, giảm 0,2%.

Đặc biệt, một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước như xuất khẩu cà phê đạt gần 1,2 triệu tấn và thu về 4,6 tỷ USD, dù giảm 11% về khối lượng nhưng tăng 40% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023.

Tương tự, 10 tháng năm 2024, xuất khẩu gạo được gần 7,8 triệu tấn và kim ngạch đạt 4,86 tỷ USD, vượt giá trị xuất khẩu gạo cả năm 2023 là 4,68 tỷ USD; rau quả đạt 6,34 tỷ USD, tăng 31,5% so với cùng kỳ năm 2023 và cũng vượt kim ngạch xuất khẩu rau quả cả năm 2023 là 5,69 tỷ USD. Cùng với đó, điều (3,6 tỷ USD, tăng 19%), hạt tiêu (1,12 tỷ USD, tăng 48%), thủy sản (8,33 tỷ USD, tăng 12%), lâm sản (13,18 tỷ USD, tăng 21%) đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Giá cà phêxuất khẩu bình quân 10 tháng năm 2024 ước đạt 3.981 USD/tấn, tăng 57% so với cùng kỳ năm 2023. Kế đến, giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng năm 2024 ước đạt 626 USD/tấn, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2023.

Châu Á là thị trường xuất khẩu lớn nhất của các mặt hàng nông-lâm-thủy sản của Việt Nam với thị phần chiếm 48,2%. Hai thị trường lớn tiếp theo là châu Mỹ và châu Âu với thị phần lần lượt là 23,5% và 11,5%. Thị phần của hai khu vực châu Phi và châu Đại Dương nhỏ, chiếm lần lượt 1,8% và 1,4%.

Có thể bạn quan tâm