Những công nhân từ Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam đi xây dựng kinh tế mới vào huyện biên giới Chư Prông, tỉnh Gia Lai lập nghiệp. Đạp bằng gian khó, họ thực hiện vai trò tiên phong đi mở đất, dựng nghiệp.
Bằng sự sáng tạo, lòng quả cảm không chùn bước trước khó khăn, họ đã biến một vùng rừng núi hoang vu, bom cày đạn xới thành một vùng quê trù phú, giàu có vào loại bậc nhất ở Tây Nguyên hiện nay.
Khi màn đêm buông xuống, cả một vùng chân núi biên giới Chư Prông sáng như một trời sao. Ánh điện lung linh huyền ảo, quyện với những thanh âm rộn rã từ những dãy nhà cao tầng ở thị trấn biên giới này gợi cho ta cảm giác như đang sống ở một nơi phồn hoa đô hội. Người ta không biết rằng, chính nơi đây hơn 40 năm về trước là vùng đất bom cày, đạn xới, hoang tàn bởi chiến tranh để lại.
Cao su bén rễ trên đất vùng biên giới Chư Prông. |
Chư Prông là một huyện biên giới phía Tây của tỉnh Gia Lai giáp với nước bạn Campuchia. Đây là dải đất rộng trên 170.000ha, nằm dưới đỉnh núi Chư Prông lộng gió đã cho huyện mang tên ngọn núi án ngữ vùng đất phía Tây.
Tiên phong đi mở đất
Ông Võ Toàn Thắng, Tổng giám đốc Công ty Cao su Chư Prông nhớ lại, đầu năm 1977, theo thỏa thuận giữa hai tỉnh cũ là Gia Lai - Kon Tum và Hà Nam Ninh, hơn 30 đảng viên, công nhân của nông trường dứa Đồng Giao, tỉnh Ninh Bình được phân công đi tiền trạm để xây dựng vùng kinh tế mới trên vùng đất Gia Lai. Sau đó là gần 4.000 con người từ các tỉnh Nam Định, Ninh Bình và Hà Nam đã từng đợt lần lượt vào theo. Họ rời quê hương mưu cầu một cuộc sống mới no đủ hơn. Nhưng rừng núi hoang vu, vắt muỗi và bom mìn của chiến tranh để lại… đã làm cho nhiều người nản chí. Sau hơn 1 năm, chỉ còn vài trăm người bám trụ.
Chị Phạm Thị Na, người đến đây từ khi mới 16 tuổi, nguyên là Bí Thư chi bộ, Đội trưởng Đội sản xuất số 10, Nông trường Thống Nhất bồi hồi: “Khó khăn, gian khổ quá, nhất là chứng kiến những cái chết thương tâm do khai hoang giẫm đạp phải bom mìn”. Rồi chị khóc lên thành tiếng: “Tôi cũng suýt nữa thì bỏ về. Nhưng được các đảng viên lớn tuổi động viên… Và không ngờ đến hôm nay, gia đình tôi đã đổi đời cũng nhờ chính vùng đất gian khó này”.
Những công nhân ở Nông trường dứa Đồng Giao (Ninh Bình) xưa, những người chỉ quen với cây lúa và hoa màu nơi đồng bằng Bắc bộ, thì nay phải quay quắt với việc trồng cây cao su trên đồi cao, đất dốc nên lúng túng, bỡ ngỡ, nhiều người tỏ ra chán chường, bỏ cuộc… Nông trường cao su Chư Prông đã được thành lập giữa năm 1977 và sau đó hơn 2.000ha cao su mới trồng đã phải thanh lý một nửa vì không phát triển được. Sự thật phũ phàng, công nhân xao xác kẻ ở người đi lang bạt kiếm sống. Như lời đảng viên Mai Khắc Tuấn, nguyên Trưởng phòng tổ chức cán bộ của công ty tâm sự: “Dù gian khổ đến mấy và còn rất ít người ở lại, chúng tôi đều là những đảng viên, nhiều đồng chí đã trưởng thành trong quân đội vẫn vững vàng trụ lại, đi tiên phong hướng dẫn, thuyết phục công nhân bám đất bám rừng để trồng cây cao su như Nghị quyết của chi bộ đã xác định”.
Ông Lương Văn Quý, Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch công đoàn công ty nhắc lại câu thành ngữ: “Trong cái khó ló cái khôn” và đúng là như vậy. Bằng sức tổng lực dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ công ty và tiếp sức từ đồng bào các dân tộc nơi đứng chân, công ty đã huy động vốn, sức lao động nhàn rỗi của người dân, kẻ góp công, người góp của để phát triển nguồn cao su gia đình; thực hiện đúng quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc vườn cây, quản lý kinh tế chặt chẽ và khoa học.
Từng chi bộ đã ra Nghị quyết, giao nhiệm vụ cụ thể cho mỗi đảng viên lãnh đạo từ 10-15 hộ gia đình trong nhiệm vụ bám đất rừng để khai hoang trồng cao su. Thế là chỉ sau một một thời gian ngắn, đơn vị đã chuyển bại thành thắng, lấy lại niềm tin cho người lao động. Trong công cuộc kiến thiết từ các nông trường của công ty, đã xuất hiện nhiều tấm gương đảng viên, công nhân trưởng thành từ gian khó như: Phan Sỹ Bình, Trần Ngọc Bính, Lương Văn Quý, Nguyễn Trung Kiên, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Hạnh… Các thế hệ đảng viên, công nhân trong hơn 40 năm qua luôn tạo dựng cho công ty tâm thế mới, trẻ già nương tựa nhau cùng đi chung một hướng là phát triển công ty ngày càng bền vững.
Cuộc đấu tranh giữa con người và thiên nhiên, giữa cung cách làm ăn cũ và mới, giữa trí trệ và tiến thủ… đã mang về cho Công ty Cao su Chư Prông những luồng gió mới. Vẫn những con người ấy, những đảng viên, công nhân ấy nhưng trái tim và khối óc thì đã chuyển thay, luôn khát khao cho đất rừng biên giới này thay đổi. Những biến cố, thăng trầm ở vùng đất này ngày xưa, nay đã tươi non, xanh thẳm của cao su bạt ngàn, tươi tốt. Hơn 40 năm, sức của con người thật là kỳ diệu. Đến nay, công ty đã có gần 3.500 cán bộ, công nhân với gần 12.500ha cao su trải dài dọc vùng biên giới, gần 200ha cà phê với 7 nông trường: Thống Nhất, Thanh Bình, Đoàn Kết, Suối Mơ, Hòa Bình… và nhiều xí nghiệp trực thuộc, trong đó có nhà máy chế biến mủ cao su công suất 9.000 tấn/năm; 1 nhà máy chế biến phân hữu cơ vi sinh công suất 5.000 tấn/năm.
Nói về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty, ông Trần Ngọc Bính, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty cho biết, công ty luôn bảo tồn và phát triển được vốn sản xuất kinh doanh. Nếu doanh thu năm 1997 chỉ có trên 24 tỷ đồng thì nay có thời điểm cao su được giá nhất đã đạt trên 1.000 tỷ đồng; lợi nhuận đạt trên 300 tỷ đồng; nộp ngân sách trên 100 tỷ đồng. Thu nhập bình quân của người lao động đạt trên 5,5 triệu đồng/người/tháng. Đảng bộ công ty luôn đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh hàng năm. Hiện nay, Đảng bộ có trên 200 đảng viên sinh hoạt tại 13 chi bộ gồm các nông trường, đội sản xuất, trường học, nhà máy chế biến…
Chúng tôi đến thăm gia đình chị Rơ Chăm Buk, chị nói: “Tôi là công nhân của công ty, làm cao su nếu được giá thì lương cao, thưởng lớn, thật là ưng cái bụng lắm!”. Tôi đã gặp những công nhân cạo mủ cao su giỏi mà vẫn thường gọi là “Bàn tay vàng” như Hoàng Văn Đông, KBăh Bem, Rơ Mah Lớ, Nguyễn Huy Hoàng… của công ty, đó là những gương mặt rạng ngời, toát lên một cuộc sống no đủ, ấm êm của những người đã xác định gắn bó trọn đời với đất và rừng cao su nơi đây.
Bây giờ, Công ty Cao su Chư Prông đã trở thành một vùng quê giàu có. Hàng ngàn ngôi nhà mới của cán bộ, đảng viên, công nhân được xây cất theo kiểu hiện đại. Cơ sở hạ tầng với điện, đường, trường, trạm và các dịch vụ thương mại, thông tin… được phủ khắp và được xếp vào loại bậc nhất so với các huyện ở Tây Nguyên. Chiều chiều, khi mặt trời vừa xuống chân núi Ia Đrăng, mọi người thả bộ trên những con đường đất đỏ xanh thẳm cao su và thơm ngậy mùi hương trái chín của cà phê, lòng người càng thêm thư thái. Trên mỗi gương mặt mà ta bắt gặp, dù người Kinh hay người dân tộc thiểu số đều ánh lên niềm vui no đủ. Chiều về, sau một ngày lao động, những chàng trai, cô gái dân tộc Jơ Rai, Xơ Đăng của các xã Ia Boòng, Ia Me, Ia Tô, Ia Băng rảo bước trên những con đường nhựa rộng mở, ánh mắt tràn đầy hạnh phúc vì họ đã cùng với công ty đón nhận danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới và nhiều danh hiệu cao quý khác trong hơn 40 năm xây dựng và phát triển.
Giúp đồng bào thiểu số cùng tiến bước
Nguyên Bí thư Đảng ủy, Tổng giám đốc Công ty Phan Sĩ Bình khẳng định: “Ở địa bàn chiến lược như biên giới Chư Prông, việc đưa đồng bào dân tộc thiểu số vào làm công nhân cao su là đúng đắn và cần thiết, hướng đến cho bà con các dân tộc thiểu số làm chủ mảnh đất của mình nên Đảng bộ công ty xác định là mục tiêu xuyên suốt từ trước tới nay”.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, công ty đã thu nhận hàng trăm người dân tộc Ja Rai ở các xã lân cận vào làm công nhân của công ty. Đến nay, công ty đã có trên 1.500 công nhân là người Ja Rai ở 42 buôn của 11 xã trong huyện, chiếm gần 50% tổng số công nhân của công ty. Riêng ở Nông trường Hòa Bình, có đến gần 92% công nhân là người Ja Rai, hoặc ở Nông trường Suối Mơ, tỷ lệ này là 77%. Công ty đầu tư hàng trăm tỷ đồng làm trên 100km đường cấp phối, 19km đường nhựa, 10km đường điện trung hạ thế, xây dựng trung tâm y tế 30 giường bệnh rồi trường học từ thị trấn đến các buôn làng… cho bà con. Giúp bà con vay không lãi để làm nhà kiến cố, ưu tiên về việc làm, định mức đầu tư, đơn giá tiền lương… rồi xóa mù chữ, bổ túc văn hóa từ lớp 1 đến lớp 5 cho trên 500 người Ja Rai ở các xã.
Trong số trên 1.500 người dân tộc thiểu số được tuyển dụng vào làm công nhân, được giao khoán chăm sóc vườn cây, không chỉ đời sống được đảm bảo, vượt khỏi đói nghèo mà còn vươn lên làm giàu như vợ chồng trẻ Rơmah Bli và Siu Keng ở làng Klă, xã Chư Đrăng là một ví dụ. Với 3ha cao su nhận khoán, thu nhập bình quân trên 5 triệu đồng/người/tháng, có những tháng thu trên 10 triệu đồng. Anh chị còn được công ty hỗ trợ trồng 800 cây cà phê, cấy 3ha lúa nước, thu nhập mỗi năm trên 120 triệu đồng. Còn với anh Kpă Toa, 26 tuổi ở đội 4, Nông trường Đoàn Kết khi được hỏi vì sao trở thành thợ cạo mủ giỏi thì anh nói: “Mình phải luôn mài con dao cho thật sắc, đi cạo đúng giờ, đúng kỹ thuật…”. Anh khoe: “Tết vừa qua gia đình em được thưởng 20 triệu đồng do vượt sản phẩm khoán ”.
Theo nguyên Tổng giám đốc Phan Sĩ Bình, việc chuyển giao kỹ thuật cho người dân tộc thiểu số làm cao su chính là điều kiện và cơ hội cho bà con, về lâu dài sẽ trở thành một thế hệ công nhân mới - những người chủ thật sự để làm giàu ngay trên mảnh đất biên giới Chư Prông giàu truyền thống cách mạng của mình.
Đêm về trên biên giới Chư Prông thật thanh bình, yên ả. Trong nhịp sống hối hả hôm nay của những người công nhân đang làm chủ núi rừng biên giới, hương đất Chư Prông tỏa ra từ cao su, cà phê, từ những ngôi nhà khang trang trong những con đường nhỏ bình yên, no đủ.
Trên nhà rông cao vút của xã Chư Đrăng, bên dòng suối Ia Đrăng quanh năm cuộn chảy, tôi nghe rõ âm hưởng cất lên từ bài hát “Đêm trên Cha Lo” của nhạc sĩ Phạm Tuyên trên chiếc loa truyền thanh vọng vào vách núi: “Em có thấy góc trời biên giới, như rực ánh hồng chân mây. Hỡi gió núi hãy hát cùng ta, nắng quê hương bừng lên, mãi xanh tươi cuộc đời’’… mà thấy tha thiết, thân thương quá giữa đất trời biên giới thân yêu.
Nguyễn Khánh Hòa/congthuong