Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt quy trình vận hành liên hồ chứa cho 5 lưu vực sông, trong đó Tây Nguyên có 3 hệ thống sông gồm: Lưu vực sông Ba (An Khê-Ka Nak, Ayun Hạ, Krông Năng, sông Hinh, sông Ba Hạ); lưu vực sông Sê San (Plei Krông, Ia Ly, Sê San 4); lưu vực sông Sêrêpok (buôn Tua Sarh, buôn Kuop, Sêrêpok 3 và Sêrêpok 4).
Theo quy định, khi quy hoạch thiết kế hồ chứa phải quan tâm đến việc xây dựng quy trình vận hành đảm bảo lợi ích tổng hợp và quy trình vận hành không tách rời mùa cạn và mùa lũ. Đối với Tây Nguyên, việc giải quyết khô hạn, cạn kiệt tài nguyên nước trong mùa khô là rất cấp thiết, bởi thiệt hại do hạn hán hàng năm cho sản xuất có thể lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Hiện nay, việc xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa chỉ tập trung đảm bảo an toàn công trình, góp phần giảm lũ cho hạ du và đảm bảo hiệu quả phát điện.
Ảnh: Đức Thụy |
Dư luận lại cho rằng: Khi xả lũ mà không báo trước, xả sai quy trình dẫn đến tình trạng gây lũ nhân tạo “lũ chồng lên lũ” như trận lũ tháng 10-2010 gây thiệt hại nặng nề ở thành phố Tuy Hòa, trận lũ vừa rồi vào ngày 25-5 ở thủy điện An Khê-Ka Nak không nằm trong thời gian quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa, xả không báo trước, không theo quy luật tự nhiên đã gây thiệt hại lớn cho nhân dân cũng là điều dễ hiểu.
Vậy những bất cập của quy trình vận hành liên hồ chứa ở Tây Nguyên một phần do sự thiếu chặt chẽ từ các văn bản quy phạm pháp luật, đến trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, thống nhất chưa rõ ràng, còn chồng chéo giữa các bộ ngành… Trong khi đó, lĩnh vực quản lý tài nguyên nước thể hiện rất rõ tình trạng này.
Theo chúng tôi, để khắc phục những bất cập nêu trên, cần phải phân biệt rõ vai trò trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc xây dựng luật, nghị định, thông tư… Rà soát đánh giá lại công tác quy hoạch thiết kế các hồ chứa ở Tây Nguyên, kể cả nhiệm vụ của công trình vì mục tiêu lợi ích tổng hợp để điều chỉnh, bổ sung, vì bản thân quy trình vận hành có nhiều hạn chế, không thể khắc phục thay cho công tác quy hoạch thiết kế.
Theo quy định, khi mực nước hồ đã đến mực nước dâng bình thường hoặc mực nước trước lũ, lưu lượng xả lũ không được lớn hơn lưu lượng về hồ. Điều đó không sai nhưng chưa đủ vì mực nước hồ nhỏ hơn mực nước dâng bình thường, hồ có dung tích xả (Qxả=0) đến khi mực nước đạt mức nước dâng bình thường sẽ xả lũ với lưu lượng bằng lưu lượng lũ đến. Điều đó sẽ gây đột biến dòng chảy cho hạ du vì đột ngột tăng từ 0 đến lưu lượng rất lớn, sẽ gây sạt lở, thiệt hại về người và của ở hạ du. Có thể gọi đó là “xả lũ không an toàn”. Theo đó, cần phải bổ sung thêm các điều về “xả lũ an toàn cho hạ du” vào các quy trình vận hành cho hồ chứa ở Tây Nguyên.
Với trình độ dự báo lũ như hiện nay, các chủ hồ rất khó vận hành theo quy trình đã ban hành. Quy trình dự báo lũ đã được Chính phủ ban hành đối với Tây Nguyên có thời gian dự kiến 6-12 giờ, thậm chí đối với sông vừa và nhỏ chỉ là 3-6 giờ. Nhưng trong quy trình vận hành liên hồ chứa lại yêu cầu dự báo trước 24 giờ lưu lượng về hồ. Đặc biệt, hiện nay thông tin số liệu phục vụ cho dự báo thủy văn còn nhiều bất cập, mạng lưới quan trắc, đo đạc chưa có hoặc quá thưa thớt.
Quy hoạch thiết kế và công tác quản lý vận hành liên hồ chứa ở Tây Nguyên sẽ còn được các nhà quản lý, các nhà khoa học và nhân dân quan tâm nhiều trong năm 2011 và những năm tiếp sau.
Nguyễn Văn Thường