(GLO)- Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, tôi được chuyển từ Sở Nông nghiệp sang Ban Kinh tế mới. Khi đó, người ghi dấu ấn rất đậm trong tôi là quyền Trưởng ban Nguyễn Đàn (bí danh là Hiệp). Ông đen, tóc xoăn, râu ria bờm xờm. Cổ tay phải của ông bị vênh oặt và tóp teo, vết tích xương tay bị dập gãy. Ông miệng nói tay làm, xông xáo trong mọi công việc. Quản lý đơn vị cấp sở mà như vị tướng chỉ huy chiến trường, ông truyền rất nhiều năng lượng cho đội ngũ sinh viên mới ra trường chúng tôi.
Ông Nguyễn Đàn là người Hoài Nhơn (Bình Định) lên Gia Lai hoạt động thời kháng chiến. Ông bị địch bắt giam ở Nhà lao Pleiku. Sau khi được thả, ông tiếp tục tham gia hoạt động, lại bị bắt giam ở Nhà đày Buôn Ma Thuột. Được mấy năm, ông cùng với các đồng chí lập kế vượt ngục. Ra ngoài, ông lại móc nối với tổ chức, được phân công về xã Gào gây dựng cơ sở hoạt động.
Theo ông Đàn, trong kháng chiến, xã Gào được bao phủ bởi những cánh rừng nguyên sinh, ban ngày không thể định hướng chính xác được vị trí Pleiku, chỉ về đêm, dựa vào ánh sáng điện thì mới chắc đúng. Là người bám trụ lâu nhất ở mảnh đất này, ông kể lại: Hồi trước, phần lớn vùng xã Gào là rừng cổ thụ. Cọp sống thành từng bầy, có đàn đến 7-8 con. Để tránh địch một cách an toàn nhất, ông Đàn thường theo những con đường cọp đi, lần vết chân cọp mà xuyên rừng. Lâu dần hình như bọn cọp cũng trở nên quen hơi ông. Có lúc ông đi trước, cọp rừng lẽo đẽo theo sau như người cận vệ trung thành. Đến lúc cột võng ăn cơm, con cọp cũng ngồi đợi, ông ung dung cất tiếng mời cơm nó như mời một người khách, một vệ sĩ. Cũng vì thế mà dân trong vùng gán cho ông Nguyễn Đàn một cái tên rất thú vị là “ông cọp”!
Diện mạo của làng A (xã Gào). Ảnh: Nguyễn Sang |
Giữa vùng rừng bạt ngàn của xã Gào thời ấy, trâu rừng cũng nhiều vô kể. Các đơn vị bộ đội, cán bộ nằm vùng thường vào rừng chặt lá rải lên trên những đám đất bằng cho trâu nằm. Kể cũng lạ, bọn trâu rừng ưa sạch sẽ, thường về quần tụ, nằm ngủ trên những “tấm thảm lá” ấy. Cho đến khi bãi đầy phân, lá cây và đất bị giẫm nát, những người kháng chiến lại cắt lá tạo thảm lá mới. Đến lúc ấy, chúng mới chịu kéo nhau sang bãi mới. Những bãi trâu nằm như vậy, cán bộ kháng chiến không cần cày xới, chỉ gieo hạt thuốc lào là được những vụ thuốc bội thu. Thuốc ấy hái phơi khô, đóng gói, đem ra vùng Gia Tường đổi bò, công cụ phục vụ tăng gia sản xuất. Không biết phân trâu rừng có chất gì đặc biệt mà thuốc lào trồng trên đất ấy vừa tốt, năng suất cao, lại hút rất phê, dùng một lần là nhớ mãi. Nhờ thế mà căn cứ đổi được nhiều bò heo, làm được nhiều ruộng nước, tự túc lương thực, thực phẩm. Cũng nhờ thế mà người dân xã Gào biết được công việc cày bừa, biết trồng lúa nước thâm canh từ rất sớm.
Ngày nay, trải qua công cuộc kiến thiết, phát triển sản xuất, xã Gào hầu như đã hết rừng nguyên sinh. Thay vào đó là triền triền cà phê, cao su, thông, keo... Đường vào làng đã được trải nhựa láng o. Buôn làng đông đúc hơn, vui hơn. Tuy nhiên, xã Gào cũng mất đi quá nhiều những gì hùng vĩ của núi rừng khi xưa.
Giá mà Pleiku bảo tồn được một xã Gào với rừng cây cổ thụ, những suối đá với địa chỉ giao dịch thư từ thời kháng chiến của quân dân Khu 9. Là ước vậy. Nó chỉ là ký ức đẹp qua lời kể của những người trong cuộc một thời dĩ vãng đã trở thành xa lắc!
PHẠM ĐỨC LONG