Bộ Tài chính đã dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14-5-2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH 12.
Dự thảo nêu rõ đối tượng chịu thuế là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước CHXHCN Việt Nam bao gồm: khoáng sản kim loại và không kim loại, dầu thô, khí thiên nhiên, khí than, sản phẩm của rừng tự nhiên, hải sản tự nhiên, nước thiên nhiên, yến sào thiên nhiên và các tài nguyên thiên nhiên khác.
Luật Thuế Tài nguyên chính thức có hiệu lực từ 1-7. Luật gồm 4 chương, 11 điều quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, sản lượng Tài nguyên tính thuế, giá tính thuế, thuế suất, kê khai nộp thuế và miễn, giảm thuế. |
Kể cả trường hợp đất, đá đào lên từ khuôn viên đất được giao, được thuê bắt buộc phải xúc bỏ đi. Trong trường hợp đưa đi trao đổi, bán thu tiền thì phải kê khai nộp thuế tài nguyên theo quy định; Trường hợp khác được miễn, giảm thuế tài nguyên, Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan báo cáo Chính phủ để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Thủy điện Ia Ly |
Đối với gỗ là giá bán tại bãi giao (kho, bãi nơi khai thác); trường hợp chưa xác định được giá bán tại bãi giao thì giá tính thuế được xác định căn cứ vào giá tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định.
Đối với tài nguyên khai thác không tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu là giá xuất khẩu đơn vị sản phẩm tài nguyên (giá FOB); trường hợp tài nguyên khai thác vừa tiêu thụ nội địa và xuất khẩu thì đối với phần tiêu thụ nội địa là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng, đối với phần xuất khẩu là giá xuất khẩu.
Tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên phải kê riêng sản lượng tài nguyên tiêu thụ nội địa, sản lượng tài nguyên xuất khẩu để khai thuế tài nguyên phải nộp trong tháng, khai quyết toán thuế tài nguyên theo quy định.
Việc xây dựng giá tính thuế tài nguyên phải đảm bảo phù hợp với hàm lượng, chất lượng, sản lượng của loại tài nguyên, tỷ lệ thu hồi tài nguyên và giá tài nguyên bán ra trên thị trường địa phương có tài nguyên khai thác.
Khi giá bán của loại tài nguyên có biến động tăng hoặc giảm 20% trở lên thì phải điều chỉnh giá tính thuế tài nguyên. Cơ quan thuế trực tiếp quản lý thu thuế tài nguyên phải niêm yết công khai giá tính thuế đơn vị tài nguyên tại trụ sở cơ quan thuế.
Cũng theo dự thảo, thuế tài nguyên được nộp bằng dầu thô, khí thiên nhiên; bằng tiền; hoặc một phần bằng tiền và một phần bằng dầu thô, khí thiên nhiên. Trường hợp thuế tài nguyên được nộp bằng dầu thô, khí thiên nhiên, cơ quan thuế sẽ thông báo cho người nộp thuế bằng văn bản trước 6 tháng trước khi phát sinh số thuế phải nộp bằng sản phẩm và hướng dẫn cụ thể về khai, nộp thuế tài nguyên bằng dầu thô, khí thiên nhiên.
Trường hợp dầu thô, khí thiên nhiên không được bán theo hợp đồng giao dịch sòng phẳng, cơ quan quản lý thuế (cơ quan thuế và cơ quan hải quan) sẽ xác định giá tính thuế theo quy định.
Theo VOV