Điểm đến Gia Lai

Câu cá sông Ba

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, những lần tôi xuống xã Yang Trung (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai) công tác thường nhằm vào dịp nông nhàn chờ trỉa hạt, độ tháng 2, tháng 3. Những ngày rảnh, tôi lại đến nhà của người anh kết nghĩa Đinh Bôi. Anh Bôi vốn là người đã từng trải, mưu sinh ở rừng, sông suối nên rất rành những dụng cụ săn bắt cá.

Một sáng, anh ngồi cột lại những sợi cước và sửa mớ cần câu để chuẩn bị tuần lễ... ngủ bờ sông để đánh bắt cá. Tôi theo chân anh, điểm đến là chân thác Ia Rung (thường gọi là sa khổng lồ ở huyện Kông Chro). Thác nước từ trên cao dội xuống, bung lên khối sương mù trắng xóa một đoạn sông. Bên dưới thác là những hố nước trong xanh-nơi có rất nhiều cá trú ngụ. Hai bên bờ, những bãi đá, cát bằng phẳng, cây cối vươn cành che tán sà ra mặt nước. Chúng tôi chọn một hang đá rộng rãi làm chỗ trú. Khi ráng chiều như dát vàng trên mặt sông, chúng tôi vác cần câu lên đường đến những điểm để đặt câu mà anh Bôi đã chọn. Anh giương cần câu dài chừng 3 sải tay cắm xuống khe đã chèn đá kỹ lưỡng. Trên đầu cần mắc chiếc lục lạc nhỏ để báo hiệu khi cá đớp mồi. Mồi câu là nhái con hoặc giun còn sống. Giữa đoạn cước, anh cài khóa bằng một chiếc tăm làm máy, được mắc vào một đoạn cây hình chữ U cắm ngược sâu xuống lòng đất.

Khi cá cắn câu kéo sợi cước tuột khỏi cây tăm, cần câu tự bật lên cá dính câu, lục lạc đầu cần reo lên. Những con cá lớn mắc câu thường quẫy mình mạnh nên tiếng kêu lục lạc càng reo to; những con lươn, con chình thì chỉ ghì cần là chính nên tiếng lục lạc rung lên từng đợt. Còn những chú cá nhỏ không kéo cần xuống sâu mà chỉ lượn lờ gần mặt nước thì tiếng rung cũng đều đặn và nhẹ nhàng hơn. Nhờ tiếng rung của lục lạc mà anh Bôi biết được cá đã mắc câu lớn hay nhỏ.

Ngư dân đánh bắt cá trên sông Ba. Ảnh: Lê Anh

Ngư dân đánh bắt cá trên sông Ba. Ảnh: Lê Anh

Dưới ánh trăng, chúng tôi quây quần bên bếp lửa vừa nướng cá vừa lắng nghe tiếng lục lạc reo. Những con cá dông (họ tràu) to bự chừng vài ký giãy giụa, uốn cần câu cong vút rồi thả ra, lục lạc rung liên hồi rất vui tai.

Trời về khuya, cá đi rong nhiều hơn. Anh Bôi thả câu giăng, lưỡi câu được cột vào cọng cước từng chùm, so le chừng mươi lưỡi một chùm và cột vào một sợi dây cước lớn dài 50-60 m, cách quãng chừng vài gang tay, móc mồi giun. Tôi đang loay hoay không biết anh Bôi làm sao giăng câu giữa hồ nước rộng mênh mông như thế. Tôi đoán anh sẽ cởi quần áo và bơi để thả câu sang bờ bên kia. Nhưng không, anh dùng chiếc ná cột sợi cước vào đầu mũi tên, đứng bờ bên này bắn sang bờ bên kia, rồi anh đi vòng sang bờ bên kia cột sợi cước vào một ống tre khô thả lửng trên mặt nước. Khi cá bơi lội mắc phải lưỡi câu hoặc cắn mồi mắc lại, đến sáng thu câu về chỉ cần đứng bờ bên này kéo về cả cá và cước câu. Những lúc cá dính câu nhiều phải cần đến 2 người kéo phụ. Qua một đêm, cả anh Bôi và tôi thu về hàng rổ cá đủ loại.

Có trải qua một đêm ở núi rừng, sông suối mới cảm nhận hết những điều kỳ thú mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Bình minh vừa ửng, tôi phải từ giã anh Bôi để về đi làm. Anh Bôi nhoẻn miệng cười thật tươi trao cho tôi 2 gắp cá nướng vàng ươm và dặn: “Mai mốt chú rảnh về đi với mình. Sông này còn nhiều chỗ có cá lắm”.

Đã gần 40 năm trôi qua, tôi mới có dịp trở lại khúc sông xưa. Cảnh vật thay đổi nhiều quá. Thác Ia Rung hùng vĩ kia không còn nước, những hố nước đã khô cạn, bãi đá năm xưa nằm trơ gan cùng mưa nắng. Tôi lặng người hoài niệm về một đêm trăng sáng, tiếng lục lạc như còn reo mãi trong tôi.

Có thể bạn quan tâm