Người trước ngã xuống, người sau xông lên
Cầm trên tay chiếc bi đông của đồng đội được trưng bày tại Triển lãm ảnh “50 năm Đắk Mil xây dựng và phát triển”, ông Nguyễn Văn Thí, bon Đắk R’la, xã Đắk N’Drót rưng rưng nước mắt. Bao nhiêu ký ức của một thời máu lửa bỗng ào về, giọng nghẹn ngào, ông nhẩm lại tên của từng đồng đội cùng tham gia trận chiến Đức Lập rồi khẽ gọi “đồng đội của tôi ơi, có bao người may mắn sống sót trở về!”.
Ông Thí sinh năm 1952, quê ở xã Trực Đại, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Tháng 11/1970, ông lên đường tham gia chiến đấu tại mặt trận Tây Nguyên thuộc Đại đội 17, Trung đoàn 28.
Tháng 6/1971, ông được điều về Tổ A50, Tiểu ban Trinh sát, Trung đoàn 28. Năm 1972, ông cùng đồng đội tham gia giải phóng Đắk Tô - Tân Cảnh, Võ Định - Tri Đạo, sau đó tiến đánh vào thị xã Kon Tum.
Quá trình đánh chiếm thị xã Kon Tum, đơn vị ông bị địch phục kích, phải nằm lại trận địa, nhiều đồng đội của ông đã hi sinh. Sau đó, đơn vị ông được lệnh rút lui ra sông Sa Thầy để quay lại rừng. “Lúc này, nước chảy xiết, chúng tôi chưa qua được thì máy bay B52 lại rải thảm. Chứng kiến đồng đội lần lượt nằm lại chiến trường, chúng tôi đau lắm, xót lắm!”, ông Thí nhớ lại.
Ông Thí còn nhớ như in cái Tết Nguyên đán năm 1975, nói là tết nhưng phải 2 tháng nữa mới đến, do yêu cầu cuộc chiến, các ông được tổ chức ăn tết sớm.
Ông Thí cho biết: “Đây là cái tết đủ đầy nhất vì có bánh chưng xanh, có thịt heo, thịt hộp; là quà của miền Bắc gửi vào. Ăn tết xong, chúng tôi được lệnh hành quân. Quá trình hành quân không ai biết mình sẽ đi đến đâu, chỉ thấy rừng bao quanh và tuyệt đối giữ bí mật; không nói to, không nấu nướng, đi đâu cũng phải xóa dấu vết, không để lại bất cứ cái gì dù nhỏ nhất”.
Nếu có mệnh lệnh, Đại đội 16 là Đại đội thông tin phân công người trực tiếp xuống đơn vị cung cấp thông tin bằng lời nói, hoặc viết ra giấy bằng ký hiệu, chữ học sinh mẫu giáo. Máy điện thoại, máy vô tuyến không được căng dây, khi mở máy chỉ được nghe, không được phát. Cứ như thế, đơn vị đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ trên đường hành quân để đến vị trí tập kết. Khi tới vị trí trú quân ở biên giới 15 ngày thì đến ngày nổ súng.
Vào lúc 5h55', ngày 9/3/1975, các đơn vị pháo binh của ta đồng loạt nổ súng. Pháo của ta bắn vào tiểu đoàn ngụy từ nhiều hướng nên chúng không nhận biết được hướng bắn để gọi cứu viện.
“Trong trận đánh, nhiệm vụ của chúng tôi là thu thập tin tức tình báo từ địch. Qua PRC25 thu được của địch, tôi có thể theo dõi giọng từng tên địch, thuộc tiếng nói của bọn chúng và biết ở đơn vị nào, cấp bậc gì. Bộ phận chúng tôi thay nhau theo dõi, cả ngày lẫn đêm, đồng chí nào mệt thì nghỉ, đồng chí khác thay, bảo đảm trực 24/24h không để sót bất kỳ một tin tức nào. Tin nào không dịch được, cả tổ họp bàn cùng nhau tháo gỡ và báo cáo với Trung đoàn trưởng”, ông Thí cho biết.
Khi pháo của ta bắn vào sở chỉ huy của địch, đơn vị ông Thí nắm được tin đã bắn trúng mục tiêu. Lúc này, từ Cư Jút đến Đồng Xoài các trận địa pháo của địch đều nằm trong tầm bắn của pháo binh ta nên địch không ứng cứu được cho nhau. Sau 2 giờ pháo kích, đơn vị ông phát hiện máy thông tin liên lạc của địch không còn liên lạc được nữa.
Sau đó, Trung đoàn trưởng lệnh xung phong, khi pháo chuyển làn cũng là lúc thổi bay tất cả hàng rào của địch để bộ đội ta xung phong theo 2 hướng tiến vào. Trong trận này, bộ đội hi sinh, bị thương nhiều vì các họng súng ở các lỗ châu mai kiên cố bắn ra dữ dội và vướng phải mìn địch gài ở hàng rào.
Ác liệt, mất mát là thế, nhưng với ý chí căm thù giặc sâu sắc và tinh thần quyết chiến vì độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng chí trước ngã xuống, đồng chí sau xông lên làm chủ trận địa. Khoảng 9h30', quân đội ta chiếm được Sở chỉ huy địch. Quân ngụy chạy trốn như ong vỡ tổ, chúng tự tháo dây giày, tự trói nhau lại và đi theo hướng của bộ đội ta quy định. Đánh chiếm xong Đức Lập, ngay trong đêm 10/3/1975, đơn vị ông lại tiếp tục hành quân tiến đánh, giải phóng Gia Lai, Lâm Đồng, Sài Gòn.
Ông Thí tâm sự: “Những năm tham gia kháng chiến ấy, chúng tôi đã nếm mật nằm gai, đứng giữa ranh giới sự sống và cái chết, có những vết thương, có nỗi đớn đau, có sợ hãi và có cả tự hào. 50 năm trôi qua, mỗi dịp 9/3, ôn lại quá khứ hào hùng, chúng tôi thêm tự hào vì đã góp phần vào chiến thắng Đức Lập, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Vui vì còn sống trở về
50 năm trôi qua, lớp bụi thời gian đã phủ mờ lên tất cả, nhưng lớp bụi ấy không làm mờ đi tờ giấy khen của cựu chiến binh Hoàng Xuân Liên, tổ dân phố 6, thị trấn Đắk Mil, huyện Đắk Mil trong trận đánh giải phóng Đức Lập. Đây là kỷ vật duy nhất còn lại trong kháng chiến mà ông còn lưu giữ. Dù chỉ lớn hơn bàn tay nhưng tờ giấy khen này lại chứa đựng cả một kho ký ức của một thời tuổi trẻ anh hùng.
Ông Liên sinh năm 1948 tại Hà Tĩnh. Năm 1970, ông tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu với lời hẹn cùng gia đình bao giờ miền Nam chiến thắng thì mới trở về. Là Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 17, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đơn vị ông cùng với các đơn vị khác vinh dự được giao nhiệm vụ phối hợp với lực lượng địa phương đánh chiếm quận lỵ Đức Lập, vị trí chiến lược quan trọng trong thế trận phòng thủ của quân đội Việt Nam cộng hòa ở khu vực Nam Tây Nguyên.
Chỉ trong thời gian ngắn, với sự hỗ trợ, giúp đỡ của quân dân và đồng bào các dân tộc tỉnh Quảng Đức (Đắk Nông), ông cùng đồng đội đã băng rừng, vượt suối, vượt qua mưa bom, bão đạn của quân thù, làm nên thắng lợi vang dội, cắm cờ quyết chiến, quyết thắng tại Đức Lập ngày 9/3/1975.
Ông Liên tâm sự: “Lúc ấy, chúng tôi chỉ biết nhận lệnh, chỉ đâu hành quân đó, tuyệt đối giữ bí mật. Người thứ nhất biết người thứ nhất, người thứ hai biết người thứ hai, không ai biết đi đâu, làm gì, như thế nào, chết cũng phải mang theo bí mật. Tôi lúc ấy là lính công binh, có nhiệm vụ khai thông, mở đường, dò bom mìn. Ác liệt, nguy hiểm, bom, đạn quân thù dội xuống liên tục, nhưng chúng tôi không hề nao núng tinh thần. Bởi chúng tôi khi vào Nam chiến đấu đã xác định một điều chết là đương nhiên”.
Cựu chiến binh Y Mới, xã Đức Minh là một trong những người tham gia đánh Đồi 722, vành đai phía Đông Nam cụm Đức Lập. Trong trận đánh này, quân đội ta bất ngờ tiến công, nên khiến địch không kịp trở tay.
“Trận đánh Đức Lập quân giải phóng thắng to rồi. Quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân địch ở đây, bắt sống trên 100 quân, thu giữ nhiều khẩu đại pháo và 20 xe tăng địch cùng nhiều xe ca của địch. Có bao nhiêu thu hết bấy nhiêu. Ngày 10/3 là tiến đánh về Buôn Ma Thuột rồi quân giải phóng mình chiến thắng toàn bộ chiến dịch Tây Nguyên”, ông Y Mới cho biết.
Bà Nguyễn Thị Nhí, tổ dân phố 3, thị trấn Đắk Mil năm nay đã 74 tuổi. Do tuổi cao, lại nhiễm chất độc hóa học, bệnh tật nhiều, bà Nguyễn Thị Nhí không nhớ rõ từng chi tiết của trận đánh Đức Lập, nhưng trong ký ức của bà, đây là trận đánh ác liệt, mất mát, hy sinh nhiều. Bà không đếm xuể số lần quân địch thả bao nhiêu bom xuống khu vực Đức Lập. Chỉ biết, mỗi lần nghe có B52, bà và tất cả mọi người ngay lập tức xuống hầm trú ẩn. Hàng ngày, bà đều nghe văng vẳng bên tai tiếng bom rơi, đạn nổ, mong một ngày không tiếng súng khó vô cùng.
“Mình trong tối, địch ngoài sáng, không biết sẽ thế nào. Nhưng lúc ấy, tất cả quân và dân Đức Lập đều đồng lòng, quyết tâm đánh giặc, nuôi quân", bà Nguyễn Thị Nhí chia sẻ.
Trong trận đánh Đức Lập, bà Nguyễn Thị Nhí vừa là du kích vừa là y tá có nhiệm vụ chăm sóc bộ đội bị thương. Mỗi trận đánh, trực tiếp chứng kiến bộ đội hi sinh, bị thương, bà Nguyễn Thị Nhí không kìm được lòng. Bà kể, bộ đội chủ lực hi sinh rất nhiều, có người chỉ còn nửa phần thân trên, người thì thịt nát xương tan, không ngày nào không có bộ đội bị thương. Thuốc men ngày ấy cũng khan hiếm, nên những người bị thương nặng đều phải tìm mọi cách để đưa đi nơi khác chăm sóc.
Khi nghe tin Đức Lập giải phóng, chúng tôi khóc cười xen lẫn. Chúng tôi đến từng thương binh để báo tin vui chiến thắng. Người đứng, người ngồi, người nằm, người bị thương nặng, bị thương nhẹ, ai cũng rưng rưng nước mắt.
Bà Nguyễn Thị Nhí, tổ dân phố 3,
thị trấn Đắk Mil - tham gia trận đánh Đức Lập
“Biết đi chiến đấu chết sẽ chiếm phần nhiều, nhưng mỗi lần đi chôn cất một người, chúng tôi đau xót vô cùng. Chiến tranh, bom đạn nên chỉ được chôn cất tạm bợ, không có bia, không có tên. Khi nghe tin Đức Lập giải phóng, chúng tôi khóc cười xen lẫn. Chúng tôi đến từng thương binh để báo tin vui chiến thắng. Người đứng, người ngồi, người nằm, người bị thương nặng, bị thương nhẹ, ai cũng rưng rưng nước mắt”, bà Nguyễn Thị Nhí kể lại.
Cũng theo bà Nguyễn Thị Nhí, trong suốt năm tháng kháng chiến chống Mỹ, Nhân dân các dân tộc của quận lỵ Đức Lập luôn chở che, đùm bọc bộ đội. Các bà, các mẹ, các chị dù đói vẫn dành gạo, củ mì để nuôi quân. Những lúc lương thực của bộ đội bị địch phá hủy, bà Nguyễn Thị Nhí lại làm nhiệm vụ dẫn đường để người dân gùi lương thực tiếp tế cho bộ đội.
“Mỗi lần dẫn đường, tôi đều phải đi trước để thăm dò, sau đó an toàn thì quay lại dẫn đường cho những người còn lại đi theo. Có lúc đi qua đường lộ, để bảo đảm an toàn, tôi lại hướng dẫn bà con cách đi để tránh tầm ngắm của địch, không để địch phát hiện ra”, bà Nguyễn Thị Nhí chia sẻ.
50 năm trôi qua, những thế hệ tham gia cuộc chiến đấu giải phóng Đức Lập năm 1975 người còn, người mất, người khỏe mạnh, minh mẫn, người già yếu nhưng tất cả đều hân hoan, tự hào vì còn được sống trở về chứng kiến sự hồi sinh, phát triển mỗi ngày của mảnh đất này.
Bà Nguyễn Thị Nhí cho biết: “Trong chiến tranh, chúng tôi coi sự sống như hạt gạo trên sàng, còn sống còn trở về, có con cháu quây quần như hôm nay là điều quý giá nhất. Do đó, chúng tôi không trông chờ, ỷ lại mà luôn phấn đấu, gương mẫu, tiên phong trên mọi mặt trận để xứng đáng với truyền thống của Bộ đội Cụ Hồ”.
Còn cựu chiến binh Hoàng Xuân Liên cho biết: “Chúng tôi tham gia cách mạng với nhiệt huyết, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Ra đi không hẹn ngày trở lại, thậm chí nhiều gia đình vì mất liên lạc nhiều năm đã nhờ người vẽ chân dung của con để thờ vọng. Vì vậy, may mắn còn sống để trở về, chúng tôi luôn rèn giũa bản lĩnh người lính Cụ Hồ, khó không lui, bại không nản, luôn vững chí trước khó khăn gian khổ. Xưa chúng tôi bảo vệ đất nước thì nay chúng tôi lại dựng xây đất nước ngày càng hùng mạnh để sự đánh đổi, hi sinh của đồng đội và một phần thanh xuân của mình thêm phần có ích”.
Theo PV (baodaknong.vn)