Do chín sớm, nên vải ở Đắk Lắk những năm qua luôn bán được với giá cao, không lo về đầu ra. Tuy nhiên, theo đánh giá của cơ quan chức năng, việc thiếu liên kết khiến loại trái cây này có nguy cơ ứ đọng, không thể xuất khẩu.
Trồng vải chín sớm lãi hơn cà phê
Bắt đầu được trồng cách đây hơn 10 năm, cây vải đã giúp nhiều nông dân Đắk Lắk thoát nghèo. Hiện toàn tỉnh có hơn 2.200ha trồng vải.
Nông dân xã Ea Sar, huyện Ea Kar đóng gói vải để bán. Ảnh: Duy Hậu |
Tuy chất lượng không thể sánh bằng các tỉnh phía Bắc nhưng cây vải ở Đắk Lắk có lợi thế chín sớm. Thị trường khan hiếm đã khiến những năm qua, vải ở Đắk Lắk luôn được "săn đón" tận vườn.
Ông Lý Văn Thọ (thôn 2, xã Ea Sar, huyện Ea Kar, Đắk Lắk) có 300 gốc vải. Hàng năm, vườn vải này cho ông Thọ 7,5 tấn trái trở lên. Do phù hợp với thổ nhưỡng, vườn vải của ông Thọ trái to đều, mọng nước. Vào vụ, thương lái luôn vào tận vườn để mua. Thời điểm dịch Covid- 19, giá vải xuống thấp nhưng gia đình ông Thọ vẫn có thu nhập rất cao.
Cây vải ở xã Ea Dăh, huyện Krông Năng phát triển tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Ảnh: Duy Hậu |
"So với cà phê, cây vải có hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều. Mỗi ha vải cho nông dân thu nhập từ 450-500 triệu đồng. Trong khi đó, mỗi ha cà phê chăm sóc quần quật cả năm chỉ có lãi vài chục triệu đồng", ông Thọ nói.
Không riêng ông Thọ, tại Đắk Lắk, ở một số vùng như Krông Pắk, Ea Kar, M'Đrắk, Krông Năng, TX.Buôn Hồ, nhiều nông dân cũng chuyển đổi cây trồng sang trồng vải. Hiệu quả kinh tế thay đổi một cách rõ rệt.
Bà Phạm Thị Thúy (xã Ea Sar, huyện Ea Kar) cho biết, trước đây gia đình trồng cà phê và tiêu. Nhưng vùng đất này cả cà phê và tiêu đều "èo ọt", hiệu quả không cao.
"Tôi trồng thử vài cây vải để ăn thì thấy loại cây này rất phù hợp. Từ đó, tôi phá cà phê và tiêu để chuyển sang trồng vải. Do cây phát triển tốt, giá bán cao, đầu ra tốt nên từ đó kinh tế của gia đình tôi thay đổi rõ rệt"- bà Thúy nói.
Thiếu liên kết trồng vải thiều, khó xuất khẩu
Thông tin từ Sở NNPTNT Đắk Lắk, mặc dù cây vải đã phát triển mạnh ở nhiều địa phương nhưng vẫn chủ yếu do nông dân tự trồng, tự bán. Nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp chưa có "tiếng nói chung" việc liên kết sản xuất còn vướng.
Do thiếu liên kết nên hầu hết vải chín sớm ở Đắk Lắk chưa có mã vùng trồng. Ảnh: Duy Hậu |
Tại huyện Ea Kar, nơi có diện tích vải khá lớn nhưng chỉ có khoảng 300 ha vải ở Ea Sar có sự liên kết trong sản xuất. Hàng trăm ha còn lại được trồng rải rác. Tại huyện Krông Năng, mặc dù diện tích vải cũng phát triển khá mạnh nhưng cũng chỉ có khoảng 110ha có sự liên kết, được xây dựng mã vùng phục vụ xuất khẩu.
Ông Nguyễn Văn Thao, Giám đốc HTX Nông nghiệp dịch vụ Thanh niên Ea Dăh cho biết, từ năm 2010-2012, nông dân bắt đầu chuyển đổi những diện tích hoa màu, cây công nghiệp kém hiệu quả sang trồng cây vải.
Do phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, cây vải phát triển tốt mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để ổn định đầu ra cho bà con, trước đây HTX cũng có liên kết với vài doanh nghiệp. Tuy nhiên, dịch bệnh Covid-19 bùng phát mạnh đã khiến chuỗi sản xuất bị đứt gãy. Doanh nghiệp cũng không tiếp cận được với người dân nên không nắm được người dân đang có gì, muốn gì và cần hỗ trợ gì.
Cũng theo ông Thao, hiện nay, người trồng vải ở xã gặp khó về khoa học kỹ thuật; quy trình chăm sóc và ký kết hợp đồng thu mua lâu dài… Đây là những vấn đề mà hiện các chuỗi liên kết chưa làm được, điều này cũng khiến nông dân chưa quan tấm đến mã vùng trồng.
"HTX chúng tôi mong muốn làm sao tham gia được vào chuỗi sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả và bền vững, đồng thời nhân rộng ra toàn xã để hình thành được vùng nguyên liệu vải có mã số nhằm thuận lợi trong việc sản xuất và thương mại sản phẩm"- ông Thao nói.
Theo lãnh đạo Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Đắk Lắk, vải là loại trái cây được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc, vì vậy phải có mã số vùng trồng.
Tuy nhiên, theo quy định để cấp mã số vùng trồng thì phải có diện tích tập trung 10 ha trở lên, trong khi ở Đắk Lắk chủ yếu là trồng xen, diện tích trồng tập trung đủ tiêu chuẩn để cấp mã số vùng trồng không nhiều.
Tuy nhiên, hiện người dân chủ yếu tự trồng nên việc xây dựng mã số vùng trồng đang gặp không ít khó khăn. Do đó các địa phương cần xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất và khuyến khích người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng tập trung.
Ông Lê Văn Thành, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Đắk Lắk khẳng định, việc cấp mã số vùng trồng hiện nay là một yêu cầu bắt buộc để minh bạch trong sản xuất, từ trồng, chế biến, tiêu thụ, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Hiện nay, Bộ NNPTNT cũng đang xây dựng các tiêu chí để cấp mã vùng trồng cho các sản phẩm nông nghiệp. Song, thật sự mà nói, đến thời điểm này nhiều đơn vị sản xuất, nông dân vẫn còn hiểu lơ mơ về mã số vùng trồng.
Chính vì vậy, đơn vị đang tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn và hướng dẫn cấp mã số, đồng thời kết nối với doanh nghiệp để sát cánh với nông dân trong việc thực hiện chuỗi liên kết.
Theo Duy Hậu (Dân Việt)