Theo đó, mục tiêu đến năm 2030, tỉnh sẽ triển khai ứng dụng, tiếp nhận và làm chủ công nghệ tạo ra các chế phẩm sinh học phục vụ cho sản xuất, chuyển dần các sản phẩm có nguồn gốc hóa học sang nguồn gốc sinh học đạt tỷ lệ từ 50% trở lên; góp phần từng bước xây dựng nền kinh tế an toàn, tuần hoàn theo hướng hữu cơ có giá trị gia tăng cao và bền vững.
Ngoài ra, tăng quy mô đầu tư 50% so với hiện nay về cơ sở vật chất, trang-thiết bị kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ sinh học đối với các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức khoa học và công nghệ công lập nhằm phát triển trình độ công nghệ sinh học của tỉnh đạt loại khá của vùng Tây Nguyên trong hoạt động nghiên cứu, tiếp nhận quy trình, thành tựu về công nghệ sinh học.
Cùng với đó, triển khai, phát triển ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý các chất thải gây ô nhiễm, phục hồi và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên, bảo vệ môi trường góp phần giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; nghiên cứu ứng dụng, tiếp nhận và làm chủ được 10-15 quy trình công nghệ sinh học trong chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi..., từ 5-7 quy trình công nghệ sinh học trong công nghiệp bảo quản, chế biến...; hỗ trợ 5-10 doanh nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học.
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Gia Lai tổ chức hội nghị phản biện dự thảo Kế hoạch triển khai Chương trình hành động số 67-CTr/TU ngày 31-8-2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30-1-2023 của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững trong tình hình mới trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Mộc Trà |
Tầm nhìn đến năm 2045, tỉnh sẽ hỗ trợ 10-15 doanh nghiệp ứng dụng công nghệ sinh học tiên tiến, hiện đại nhằm mang tính dẫn dắt các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trên địa bàn tỉnh đạt loại khá của cả nước; triển khai, làm chủ được một số công nghệ sinh học mới, hiện đại, tạo ra sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực đủ trình độ làm chủ công nghệ, tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, hiện đại ở quy mô công nghiệp.
Tại Kế hoạch này, UBND tỉnh đã đề ra 3 nhiệm vụ trọng tâm: tuyên truyền, phổ biến, cập nhật thành tựu về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học; đầu tư tiềm lực phục vụ phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học; phát triển, ứng dụng hiệu quả công nghệ sinh học và phát triển công nghiệp sinh học.
Đồng thời, kèm theo 5 nhóm giải pháp để triển khai thực hiện, gồm: tuyên truyền vai trò của công nghệ sinh học trong phát triển kinh tế-xã hội; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng hiện đại, xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp, y dược của tỉnh; ứng dụng công nghệ sinh học trong quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; nâng cao chất lượng nguồn lực, hoạt động đổi mới sáng tạo, gắn với phát triển công nghệ sinh học; đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học.
Trên cơ sở Kế hoạch này và chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước, UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành, đơn vị thuộc tỉnh chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch của đơn vị mình để triển khai, thực hiện và lồng ghép với chương trình, kế hoạch công tác năm; UBND các huyện, thị xã, thành phố có trách nhiệm xây dựng, ban hành kế hoạch cụ thể để thực hiện hiệu quả; giao Sở Khoa học và Công nghệ theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Kế hoạch này; định kỳ hàng năm trước ngày 20-12 (hoặc đột xuất khi có yêu cầu) tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện về UBND tỉnh.