Văn hóa

Cổ học tinh hoa

Gia Lai phát huy giá trị của văn hóa lễ hội

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(GLO)- Gia Lai hiện có 44 dân tộc cùng sinh sống nên có sự đa dạng, phong phú về các loại hình văn hóa lễ hội. Để góp phần phát triển kinh tế-xã hội, tỉnh luôn chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa lễ hội trong cộng đồng các dân tộc.

Phong phú, hấp dẫn

Vùng Trường Sơn-Tây Nguyên gắn liền với kinh tế rừng, kinh tế nông nghiệp lúa rẫy. Cư dân nơi đây có hệ thống nghi lễ và hội hè, gọi chung là mùa ning nơng, diễn ra tưng bừng vào dịp trước và sau Tết Nguyên đán.

Các lễ hội được tổ chức có: mừng lúa mới, pơ thi, cúng các Yàng (Yàng nước, Yàng cây, Yàng suối, Yàng rừng...). Lễ hội được diễn ra trong quy mô họ tộc, cộng đồng làng. Quy trình của lễ hội đều gồm các bước: chuẩn bị, vào lễ, vào hội.

Huyện Phú Thiện tổ chức lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui nhằm phát huy giá trị của văn hóa lễ hội trong cộng đồng. Ảnh: Vũ Chi

Huyện Phú Thiện tổ chức lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui nhằm phát huy giá trị của văn hóa lễ hội trong cộng đồng. Ảnh: Vũ Chi

Tùy vào mức độ quan trọng của lễ hội mà việc chuẩn bị lễ vật được tiến hành sớm hay muộn. Lễ vật để cúng tế không thể thiếu là rượu ghè, con gà (hoặc là con dê, bò, trâu). Khi gần đến ngày diễn ra lễ hội thì cần thông tin đến họ tộc, cộng đồng về buổi lễ; phân công, cắt cử mọi việc; kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn…

Bước vào phần lễ thì phải dâng bày đầy đủ vật hiến tế để thầy cúng tiến hành nghi lễ với sự chứng kiến (cùng hành lễ) của các thành viên trong gia đình/họ tộc/cộng đồng. Đây là hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Sau đó, mọi người bắt đầu vào hội với các hoạt động cùng nhau ăn uống, chuyện trò, diễn xướng.

Vài thập niên trở lại đây, diễn trình văn hóa của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng vận động và định hình theo một diện mạo mới thông qua lối sống giao thoa, tác động của kinh tế nông nghiệp lúa nước, sức ảnh hưởng và lan tỏa của tôn giáo, bởi thành tựu khoa học-công nghệ, của lối sống công nghiệp… nên mùa ning nơng bị “đứt quãng” cả theo nghĩa không gian và thời gian.

Tuy thế, ở vài địa phương thuộc huyện Krông Pa, Kông Chro và thị xã Ayun Pa, bà con Jrai, Bahnar vẫn bảo tồn nhiều lễ hội truyền thống. Trong đó, lễ pơ thi (cuộc chia tay vĩnh viễn giữa người sống và người chết) là quan trọng nhất.

Một số làng xã thuộc các huyện Kbang, Phú Thiện, Ia Grai… có đông đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc sinh sống thì Tết Nguyên đán là dịp để họ tổ chức các hoạt động lễ hội của dân tộc mình. Ngoài ẩm thực đặc trưng, họ còn diễn xướng các trò chơi tung còn, nhảy sạp, múa khèn; đắm say với điệu múa dân gian mềm mại của những thiếu nữ trong bộ váy áo rực rỡ sắc màu. Với cộng đồng người Kinh thì lễ hội truyền thống theo tín ngưỡng dân gian cũng được gìn giữ, phát huy giá trị.

Hàng năm, nhiều địa phương tổ chức lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân và thu hút khách du lịch như: hội cầu huê (thị xã An Khê), lễ cầu mưa (huyện Phú Thiện), lễ hội hoa dã quỳ-núi lửa Chư Đang Ya (huyện Chư Păh)...

Vấn đề đặt ra

Lễ hội tạm được chia ra gồm truyền thống và hiện đại. Về mặt thời gian, lễ hội truyền thống là sản phẩm văn hóa hình thành trong cộng đồng các dân tộc từ xa xưa. Trong xã hội truyền thống, những phong tục, tập quán, thói quen, lối sống đã ăn sâu bám rễ vào tư duy và đời sống, được kế thừa, phát triển trong suốt tiến trình lịch sử, mang giá trị riêng, thể hiện tinh thần, cốt cách, bản sắc dân tộc.

Theo thời gian, lễ hội truyền thống bộc lộ một số hạn chế, được hiểu là những mặt trái, lạc hậu, lỗi thời trong bối cảnh đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay như: lãng phí về thời gian và tiền của; gây mất vệ sinh (các lễ hội liên quan đến người chết); mang tính bạo lực (lễ ăn trâu)...

Những năm gần đây, một bộ phận người trẻ dân tộc Jrai, Bahnar có xu hướng “chạy đua” tổ chức sinh nhật thành viên trong gia đình, kỷ niệm ngày cưới, mừng tân gia… tại nhà hàng hay thuê dịch vụ nhà hàng tiệc cưới với quy mô đông người.

Hậu quả là nợ nần, đời sống thêm khó khăn, từ đó vợ chồng mâu thuẫn, xung đột, có trường hợp dẫn đến ly hôn. Một số lễ hội còn xảy ra tình trạng xô đẩy, chen lấn, thậm chí đánh nhau.

Để bảo tồn và phát huy nét đẹp của văn hóa lễ hội, việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo tồn văn hóa, về công tác quản lý văn hóa là nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với cơ sở.

Nhiệm vụ tuyên truyền có thể lồng ghép việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với phát triển du lịch, tiếp thu có chọn lọc văn hóa mới, bài trừ hủ tục, chống âm mưu lợi dụng dân tộc, lợi dụng tín ngưỡng văn hóa để chia rẽ dân tộc, chống phá khối đại đoàn kết dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhân dân ta.

Văn hóa lễ hội gắn với thiết chế văn hóa. Một số nhà rông văn hóa không còn phù hợp với điều kiện tự nhiên, phong tục, tập quán của cộng đồng; hoặc trang-thiết bị hoạt động hầu như đã cũ; hoặc đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động lễ hội “thiếu tay nghề”, chủ quan, áp đặt, mệnh lệnh... sẽ là điều kiện cho lễ hội hiện đại phát triển.

Mặt khác, khi sinh cảnh của vùng văn hóa Trường Sơn-Tây Nguyên với đặc trưng kinh tế lúa rẫy và dựa vào rừng bị thu hẹp cũng là lý do để lễ hội truyền thống bị mai một. Khắc phục tình trạng trên sẽ góp phần đưa đưa lễ hội truyền thống đi vào quỹ đạo, phát huy hiệu quả.

Có thể bạn quan tâm