Bà Đặng Thị Lượng tham gia hoạt động cách mạng từ tháng 5-1972. Năm 1973, bà được phân công công tác về Bệnh xá quân y K6 (Ayun), đến tháng 3-1975 thì được tăng cường về Đội phẫu tiền phương Tỉnh đội Gia Lai.
Hôm sau bắt đầu trận đánh chính thức. Chúng tôi hồi hộp chờ đến giờ nổ súng. Dù không trực tiếp chiến đấu nhưng chúng tôi vẫn không ngủ được, vì không biết đến sáng mai ai còn ai mất. Xác định đánh nhau là đổ máu, là hy sinh, vậy mà trong lòng ai cũng lo lắng. Ở hậu cứ, chúng tôi coi nhau như ruột thịt. Mỗi khi đi săn hay đánh cá, các anh em cũng thường mang sang cho bệnh xá vì biết rằng chị em không biết săn bắt để cải thiện bữa ăn.

Giờ G đã điểm, tiếng bộc phá vang lên phá tan màn đêm yên tĩnh. Đơn vị đặc công đã phá cầu Ia Pết, chặn đường tiếp tế của địch. Tiếp theo đó là các loại đạn rền vang; đường đạn bay, ánh lửa đỏ xẹt đan qua, đan lại như cầu vồng khắp bầu trời. Pháo sáng soi khắp một vùng kèm theo tiếng chớp vang rền của bộc phá, của lựu đạn, của B40... Dù cách xa nhưng vẫn cảm nhận không khí đặc quánh nơi chiến trận. Chúng tôi hối hả hấp dụng cụ chờ sẵn.
8 giờ sáng, 15 ca thương binh cả nặng lẫn nhẹ được các anh chị em dân công cáng từ mặt trận trở về. Chúng tôi ai vào việc nấy. Người đo huyết áp, mạch nhiệt; người lo tiêm thuốc trợ sức, trợ tim, thử test Penicilline và tiêm phòng uốn ván. Y-bác sĩ khám và phân loại thương tật, các ca cần đại phẫu để lại cấp cứu chuyển về hậu cứ sau, còn thương binh loại trung và tiểu phẫu sau khi cấp cứu xong lập tức đưa về hậu cứ gấp.
Tại lán lúc bấy giờ còn 4 thương binh nặng, trong đó có bệnh nhân chấn thương sọ não hở, hôn mê sâu. Đồng chí ấy la hét, vật vã cả ngày lẫn đêm. Các liệt sĩ cũng được mai táng phía trên đồi từ trưa, sau khi chuyển về nhưng vì bận tiếp nhận cấp cứu thương binh nên chúng tôi không kịp đến nhìn mặt tiễn biệt các anh lần cuối.
Sáng hôm sau, tôi được phân công cùng đoàn dân công đưa 4 thương binh nặng về tuyến sau. Khoảng 20 dân công thay nhau khiêng cáng, đi liên tục cả ngày lẫn đêm. Dân công của từng xã luân phiên nhau khiêng cáng, hết địa phận xã này thì bàn giao cho xã tiếp theo. Vậy nên mỗi khi đến xã khác là tôi lại vận động bà con ra khiêng.
Trong thời gian chờ dân công đến, tôi làm nhiệm vụ hồi sức cho thương binh. Mùa này cũng là mùa phát rẫy của đồng bào nên thanh niên trai tráng ra rẫy ngủ lại, chỉ còn những người lớn tuổi và tàn tật ở nhà, song họ đều sẵn sàng tham gia khiêng thương binh. Khi đoàn đến bờ sông Đăk Trôi (thuộc huyện Mang Yang ngày nay), hai bên bờ là rừng cây lúp xúp xen kẽ với tranh, bụi le, tôi cho dừng lại nghỉ ngơi, ăn uống trước khi vượt sông.
Tháo chiếc túi cứu thương ra khỏi vai chuẩn bị lấy thuốc tiêm cho các thương binh, tôi nghe thấy tiếng vè vè... o o... trên đỉnh đầu. Đó là máy bay trinh sát của địch! Mọi người vội vàng cáng thương binh vượt sông vì nơi này trống trải không có chỗ ẩn nấp. Cả đoàn vội vàng cáng chạy đến làng A Btốt cách đó khoảng 1 cây số.
Vừa đến đầu làng, chúng tôi đã nghe tiếng gầm rú của máy bay phản lực, ngay sau đó là tiếng nổ chát chúa theo nhau dội vào. Tai ai nấy điếc đặc. Vạt rừng kế bên bờ sông như bị xé nát; cây cối, đất đá, khói đen bốc lên không trung, bay rào rào gần đến chỗ chúng tôi trú. Mọi người sợ hãi nằm sát dưới mặt đất.
Sau khi nghỉ ngơi, khoảng xế chiều, chúng tôi lại lên đường. Đường về hậu cứ rất khó đi, leo lên những ngọn núi rất cao, xuyên đêm qua nhiều con suối nhưng không dám đốt đuốc vì sợ máy bay địch phát hiện. Đi trong đêm tối thường xuyên vấp ngã, bà con cố gắng giữ võng, không để các anh rớt xuống đất.
Mỗi lần lên dốc hay xuống dốc, người khiêng phải quay đầu các thương binh trở lại để đầu cao hơn chân, bởi chỉ một sơ suất nhỏ trên đường đi cũng để lại hậu quả xấu.
Lúc này, ý chí và nghị lực của mọi người thật lớn, cái mệt mỏi và sợ hãi chỉ thoáng qua. Ai cũng không sợ gian lao, vất vả, chỉ mong đi nhanh để có cơ hội cứu sống thương binh.
Đến quá nửa đêm thì cũng đến nơi. Các y-bác sĩ Bệnh xá quân y K6 đã thức dậy chong đèn đón thương binh và đưa vào cấp cứu kịp thời. Bàn giao xong, tôi thấy trong lòng nhẹ nhõm vì đã hoàn thành nhiệm vụ, trên đường đi không có ai bị thương vong.
Đêm đó bà con dân công không ngủ lại mà vội về ngay. Riêng tôi ở lại đến sáng hôm sau để nhận thêm thuốc, rồi cũng nhanh chóng lên đường trở lại đội phẫu. Đoạn đường trở ra, tôi cũng phải đi cả ngày lẫn đêm để bắt kịp đội phẫu. Bởi lẽ, đồn bốt của địch đã bị diệt, đội phẫu phải theo các đơn vị bộ đội rời đi.
Khi ấy, trong lòng tôi chỉ lo sợ gặp biệt kích vì là y tá tôi đâu có súng đạn để chiến đấu. Tôi không dám nghỉ chân, cứ mải miết bước đi như cái tuổi 17 mới lớn đầy năng lượng và nhiệt huyết của mình. Đến khuya hôm đó, tôi về đến nơi đóng quân của đội phẫu, cùng các anh chị ăn uống, nghỉ ngơi để lấy sức cho sáng hôm sau tiếp tục di chuyển đến nơi đóng quân mới.
Tình đồng chí, đồng đội và cả ký ức của những năm tháng ấy, có lẽ sẽ theo tôi đến cuối cuộc đời...