Phóng sự - Ký sự

Nằm mộng trong tranh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- “Mơ mộng” cũng là một đặc tính của giống loài này. Có người quên; có người từ bỏ; có người lao vào.        
Bứa là kẻ vụng về mọi chuyện đời. Tranh thì vẽ đẹp, mà ngoại giao trên mây thế thì làm quái gì gặp được con người dưới trần, thiết lập được quan hệ, để người ta biết đến tranh mình, để bán. Thế gian mấy kẻ sống được bằng tranh, bằng thơ, mà lại ở cái xó núi Đà Lạt này. 
Gửi mộng vào tranh
Tranh Bứa y chang con người Bứa. Nó tinh khiết, trong vắt từ màu sắc, đường nét, đến chủ đề. Nó như thế không phải ở bây giờ mà từ bốn mươi năm qua.
Bứa hay vẽ hình ảnh kẻ thi sĩ dưới vòm đời. Làm sao mà quên hình ảnh một anh nhà thơ gầy gò hiện ra bằng một hóa thân giữa con người với một loài thú mộng lành nào đó vác một cành lá xanh bé tẹo đi giữa sắc cam vàng trong trời đất. Khi Bứa bán bức tranh này cho một nhà sưu tập ở Hồng Kông, họa sĩ Hồ Hữu Thủ ở Sài Gòn đã nói với Bứa: “Ông bán cái chân dung ông rồi!”. 
Bị liệt cánh tay phải, Bứa bắt cánh tay còn lại phải vẽ thay.                                                Ảnh: N.H.T
Bị liệt cánh tay phải, Bứa bắt cánh tay còn lại phải vẽ thay. Ảnh: N.H.T
Mỹ thuật của Bứa giống như âm nhạc của ông Trịnh Công Sơn vậy. Ông nhạc sĩ này viết nhạc trong thơ, thì Bứa vẽ “thơ” trong tranh, thành tranh. Gam màu chủ đạo của tranh Bứa là màu xanh lá non, màu cam vàng của lá đầu thu, cùng màu đỏ non của trạng thái bào thai. Người thì ưu tư nhưng chẳng hiểu sao tranh lại hồn nhiên, mông lung và an lạc đến vậy. Tranh Bứa không có chỗ cho sự tù túng, dù bức của ba mươi năm trước, hay bức mới vẽ xong chiều qua. Xem tranh Bứa con người ta chỉ có thể bay lên, chứ chẳng thể chùng xuống. Tranh “thiền” trong mộng, vì người vẽ ra nó như một đạo sĩ. Hình như Bứa có sự xung đột giữa thực tiễn đời và giấc mộng bên trong. Bứa không vẽ cuộc đời mà vẽ giấc mơ. Đời quá phàm tục nên Bứa vẽ cõi nào đó cứu cõi người. Nên trên thảo nguyên sắc màu kia, nhân vật cứ mãi là gã nhà thơ, gái đẹp, ngựa, chim, ánh mắt, núi đồi, trăng, chiếc lá. Thi sĩ trong tranh thì thánh thiện đến không cần quần áo; thiếu nữ thì vọng về cõi ban sơ đến ngơ ngác; ngựa thì non tơ ngốc nghếch đến lạc bầy; chim thì u dại, chơ vơ… Những trong sáng, hồn nhiên nguyên bản, từng là. Nếu bức hiếm hoi nào đó vẽ gam màu buồn, biểu đạt cái buồn, thì vẻ buồn ấy cũng thánh thiện, mênh mông, vang vọng. 
Đang chung chạ với cõi trần mà mọi thứ ở Bứa cứ đòi thoát tục. Bứa  nhận mình là “Con chim thi sĩ núi đồi”. Sự tự chuốc khác người này không chỉ ánh xạ xuyên suốt qua tranh, mà Bứa cũng từng ghi vào sổ: “Ngày ấy của tôi là cái túi xếch/chất đầy gió mênh mông/Ngày ấy của tôi là vầng trăng/tôi lao vào cuộc chơi bốn mùa thi sĩ/ Tôi sẽ hái hoa trên trời vạn kiếp/tôi chẳng bao giờ đánh mất một vầng trăng tôi yêu”. Chẳng ai như Bứa, ví như hồi vợ bội phản, bỏ mình, mà lại ngồi viết ra: “Tôi thấy em ngồi bên con suối vắng/phân trần điều gì với hoa và trăng…”.
Vẽ với cánh tay còn lại         
Một chiều cận Tết năm 2012, Bứa lang thang quanh hồ Xuân Hương. Đột nhiên, người khụy xuống. Người ta đưa Bứa đến bệnh viện. Cả người Bứa bất động do đột quỵ. Ba tháng, chuyển qua ba nhà thương, Bứa xuất viện với mất nửa người bên phải không còn cử động được. Tức cái tay phải Bứa cầm cọ coi như “xong”, hết tác dụng. Bứa đau khổ, vì từ nay không còn được vẽ. Mà không được vẽ, với Bứa là sự đau khổ còn hơn bị vợ bỏ. Một năm rưỡi cố tập, nhưng vẫn không phục hồi được cánh tay phải, còn chân thì dĩ nhiên lết cà giựt cà giựt. Bứa lại khóc như trẻ thơ. Hàng ngày trong xưởng vẽ, Bứa ngồi nhìn đống sơn dầu dưới sàn kia như mèo nhìn mỡ để tủ kính. Bứa ngồi nhìn giá vẽ như nhìn thiên đường đã mất. Bứa nhìn những bức tranh dở dang mà tuyệt vọng. Tôi nhìn Bứa, thương đến chết lặng. Những lúc này, tôi thà đi quanh xưởng vẽ của Bứa, nhìn vào sự hoang tàn, đổ nát của một xưởng vẽ, còn hơn nhìn Bứa. 
Bứa đến với hội họa như là cứu cánh cuối cùng cuộc đời mơ mộng bi khốn của mình. Từ khi đi dạy học Bứa đã vẽ. Vẽ màu nước thì ít tốn tiền. Chuyển sang sơn dầu, với nhiều người là bình thường, trong tầm tay, nhưng với Bứa vật liệu này là quá sức. Bứa từng ngồi chực trước một ngân hàng ở khu Hòa Bình-trung tâm Đà Lạt-để hy vọng gặp được một ông lãnh đạo ngân hàng xin vay 500 ngàn đồng mang về Sài Gòn mua sơn dầu. Cho đến khi gặp được họ, họ bảo phải thế chấp một cái gì đó mới vay được. Bứa vô sản, không nhà cửa, đất đai (và cả vợ) thì “thế” bằng cái gì. Bứa trách ngân hàng không có tâm hồn, không nghệ sĩ. Vậy đành thôi ý nghĩ nhờ đến ngân hàng. Rồi 2 năm sau đó, có một ông quan hàng tỉnh biết Bứa từ hồi cùng “xuống đường” phản đối chính sách của chế độ cũ miền Nam, nên đứng ra tín chấp cho Bứa được vay với danh nghĩa “để lao động nghèo phát triển sản xuất”. Từ đó Bứa về Sài Gòn thành công, mua được sơn dầu. Bứa hứa sẽ trả nợ bằng tiền bán tranh. Rồi lao vào hội họa, và chuyên nghiệp từ đó.
Bứa vẽ chuyên nghiệp, tranh lạ, đẹp, giá trị cao, là một trong 3 họa sĩ hàng đầu của nền mỹ thuật Đà Lạt đương đại (cùng họa sĩ Nguyễn Thái Tuấn và Nguyễn Minh Thành), nhưng xứ này mấy ai mua tranh treo đâu. Có giai đoạn Bứa mang tranh bán cho hãng bia hơi địa phương, cho Bưu điện, và đậm nhất là gá nợ cho một tay cáo già trùm kinh doanh tranh thêu ở Đà Lạt. Họ mua ép tranh Bứa, đưa năm bảy trăm ngàn đồng cho một bức, ngay đến giai đoạn đồng tiền rớt giá thì chỗ trả khá nhất cũng chỉ vài triệu đồng. Trong cuộc lê thê quẫy đạp giữa mơ mộng và áo cơm đó, Bứa cũng đã làm 5 cuộc triển lãm riêng ở Đà Lạt và 2 cuộc chung ở Sài Gòn kể từ ngày ấy đến giờ.
Bứa rầu rĩ suốt 2 năm. Khi liệt cánh tay thuận, chính sự cô độc và cái nghèo tận đáy đã đẩy Bứa trỗi dậy. Vậy là Bứa bắt cái tay còn lại phải hoạt động mỹ thuật. Bứa khởi động lại từ đầu nghề hội họa. Những nét vẽ nhọc nhằn, xót xa. Mất thêm nửa năm để “đào tạo” cho tay trái nhuần, trên toan. Tay trái quá nghịch, nên Bứa vẽ chậm, kỹ, chăm chút hơn cánh tay thuận đã “hy sinh” kia. Những bức tranh bằng cánh tay trái ra đời. Lạ là tranh còn đẹp hơn trước kia. Chắc vì nỗi đau và sự cùng đường. 2 năm qua, Bứa đã vẽ 33 bức bằng cánh tay tội nghiệp đó, cho dù dân văn nghệ ở phố núi nghĩ mỹ thuật của Bứa đã “chết” lâm sàng rồi. Ngoài tôi ra, không ai biết Bứa đã làm nên điều kỳ diệu này. Cuối năm này, 2016, Bứa sẽ đưa số tranh kỳ diệu này ra triển lãm ở trung tâm Hòa Bình (TP. Đà Lạt). Mọi người lại sẽ thấy Bứa “tái sinh”. Rồi họ sẽ ngạc nhiên thôi.
Thờ tự do
Vậy là Bứa đã có 43 năm đến Đà Lạt. 43 năm có quê hương nhưng không có thật nhà. Căn nhà nay Bứa đang ở nhờ, trước cửa Bứa để hàng chữ năn nỉ bọn thanh niên hư hỏng: “Chú làm thơ nghèo khổ, đừng lấy cắp của chú. Cần gì chú giúp”. Ký tên: “Chú Bứa”.  Đứa nào đột nhập nhà Bứa thì có dại, vì có gì đâu ngoài mớ sơn dầu, tranh và chiếc giá vẽ. Bứa thuê nhà trọ vòng quanh Đà Lạt. Bứa cũng ở nhờ khắp nơi, từ phòng ở chung cư của người ta, phòng khách cơ quan, phòng bảo vệ, đến phòng thừa ở trường học. Đã nghèo, lại nghệ sĩ tính quá cỡ nữa, sá chi mặc cảm.
Dưới từng bức tranh của mình, Bứa ký nghệ danh là Hoàng Như Thủy An, tên làng quê xứ cũ, thế mà ai gặp thì cũng gọi chào là “anh Bứa”. Hình như cái âm thanh “Bứa” đã dễ thương, réo rắt nghệ thuật rồi, từ cái tên thật Hoàng Như Bứa của Bứa.

Bứa là họa sĩ nổi tiếng, nhưng không xuất thân từ trường mỹ thuật.  Bứa có khả năng hội họa bẩm sinh và tự học. Bứa tốt nghiệp ngành canh nông, sau khi học Trường Cao đẳng Sư phạm Nông Lâm Súc Sài Gòn. Bứa vào đời bằng nghề dạy học ở Tùng Nghĩa, Đơn Dương, Đà Lạt (Lâm Đồng), với môn Toán và Văn chương, từ trước 1975 đến sau này. Bứa nổi tiếng đi dạy không bao giờ có giáo trình, bởi kiến thức trong đầu Bứa chắc đến độ cung cấp thỏa mãn cho học trò và làm hấp dẫn chúng. Không biết cái tên “Bứa” làm học trò dễ nhớ, hay vì kiểu dạy siêu hạng kia mà giờ gặp những người Bứa từng dạy họ đều khen và tự hào về người thầy Bứa năm nào. Có người còn bảo, ngày đó chỉ có thầy Bứa là khi dạy hay tranh thủ “xúi” học trò đi biểu tình chống ông Thiệu. Bứa yêu cái đẹp, lý tưởng cái đẹp, tôn thờ tự do và điều thiện lành, cũng không thích chính quyền khó hiểu của ông Thiệu, và Bứa cũng ngơ ngác xã hội sau đó. Bứa nghĩ, không yêu tự do thì tranh cũng không đẹp, mà dạy học cũng chẳng thể nào hay và chân lý không bao giờ ở trong xiềng xích. Bứa đạt đến tầm ngoại hạng, hay lập dị, ai nghĩ sao với Bứa cũng tốt cả. Như mỗi khi Bứa vẽ, nếu không mở nhạc Kitaro, thì cũng phải Trịnh Công Sơn, chứ không thì Bứa vẽ không được. Bứa phải lạc trong âm nhạc như thế đường nét mới tứa ra. Đôi lần tôi lén thử tắt nhạc thì y như rằng Bứa buông cọ ngay. 

Sau 48 năm rời xa quê nghèo làng Thủy An, vùng Cầu Hai nước lợ dưới chân núi Bạch Mã của xứ Thừa Thiên-Huế, kết quả đời Bứa là… không có gì, ngoài mấy bức tranh kia. Nếu Bứa ham tiến thân thì sự cống hiến cho giáo dục cùng thành tích “xuống đường” kia đã đưa Bứa thành quan chức như nhiều người, chứ không phải kẻ không nhà cửa. Bứa bỏ đời công chức để tìm tự do mà, từ 29 năm trước-như thiên hạ cứ chân trong chân ngoài phải ổn chắc hơn không(!). 
Mà chắc gì mấy bức tranh ấy sẽ còn, bởi nó có thể “ra đi” bất cứ lúc nào như bao bức tranh trước đó, vì tranh thì chỉ độc bản, và vì Bứa thì bao giờ cũng thiếu tiền. Cũng chẳng ai như Bứa, khi người ta nói ngon nói ngọt thì có bao nhiêu tranh trong nhà bán sạch, đã nhiều lần bán một lúc hai ba chục bức. Tranh đặc biệt, có giá trị, mà bán như nông dân bán nông sản, bán “xô”. 
Cái giá của sự chân chính, tự do và mơ  mộng là vậy...
 Nguyễn Hàng Tình

Có thể bạn quan tâm