Văn hóa

Cổ học tinh hoa

Ngày xuân thưởng ngoạn chữ trên đồ sứ cổ

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Một chút phiêu diêu trong thế giới đồ sứ thế kỷ 18-19 lúc trời đất đang vào xuân, có cảm giác như đang lạc vào một thế giới cổ tích.
Cảnh chùa Thái Bình - núi Tam Thai - Ngũ Hành Sơn.
Cảnh chùa Thái Bình - núi Tam Thai - Ngũ Hành Sơn.
Chơi đồ sứ cổ là một trong những thú chơi tao nhã, sang trọng, đòi hỏi nhiều điều kiện mà không phải ai cũng có thể đáp ứng. Và đặc biệt không chỉ ngắm nhìn vẻ đẹp hoàn bích của món đồ mà còn là thú chơi nhân đôi, khi khám phá những cảnh vật non xanh nước biếc đất Việt và những câu thơ tuyệt tác, những lời chúc đẹp được in dấu…
Ngày xuân, một khắc thưởng ngoạn “chữ” trên đồ sứ ký kiểu “Ngự dụng” thời Nguyễn thế kỷ 18-19. Và trước khi ngắm nghía những vật phẩm thời gian, nên pha một ấm trà sen, cầu kỳ hơn tí nữa, đốt một lư trầm, tạo một không gian liêu trai, một làn khói trầm phảng phất bãng lãng, một thoáng hương thơm thanh thoát của sen, và ngòai trời kia là mùa xuân đang đâm chồi nảy lộc…
Những chiếc dĩa sứ men lam với nhiều điển tích, thơ, văn của những thi nhân, đặc biệt là những chiếc dĩa trà in danh lam thắng cảnh nước Việt với những câu thơ như họa cho cảnh vật lung linh hư ảo,  trầm tư, như một khỏanh khắc thiền trong tâm. Thú vị hơn là trong những dĩa trà ký kiểu này còn có những câu thơ, điển tích chúc phúc mùa xuân đầy ý nghĩa.
Ấn tượng đầu tiên gây hứng thú  khi thưởng ngoạn những đồ sứ “Ngự dụng” triều Nguyễn thế kỷ 18-19, bởi đây là đồ sứ ký kiểu, đặt thợ nhà Thanh - Trung Quốc, nhưng cảnh vật in trên đĩa lại là non nước Việt, là những câu thơ Nôm - ngôn ngữ Việt. Cũng thật kỳ lạ, trên những dĩa sứ men lam cổ, phần lớn đều vẽ những danh thắng non nước miền Trung, xứ Thuận Hóa- Huế. Phải chăng là đồ “Ngự dụng” triều Nguyễn nên non nước “Đàng Trong” được ưu ái với nét vẽ như tranh sơn thủy, tinh tế, sắc xảo, sống động khôn nhường.
Chiếc đĩa có hiệu đề "Thanh ngoạn”, vẽ toàn cảnh cửa biển Tư Dung - Thuận Hóa, với lời đề thơ chữ Nôm của Đào Duy Từ (1572-1634): “…Một bầu riêng rẽ thú yên hà/ Nghi ngút hương bay cửa Đại La/ Ngày vắng đỉnh đang chuông bát nhã/ Đêm khuya dắng dõi kệ Di Đà/ Nhặt khoan đàn suối ban mưa tạnh/ Eo óc cầm ve thuở ác là…”.
Đĩa vẽ cảnh biển Tư Dung - Thuận Hóa.
Đĩa vẽ cảnh biển Tư Dung - Thuận Hóa.
Một chiếc dĩa khác vẽ cảnh chùa Thái Bình ở núi Tam Thai- Quảng Nam,với bài thơ Nôm tả cảnh rất đẹp: “Tạo hóa khéo đúc hình/ Non nước song thanh/Ai dặm đỉnh ngao giữa đáy/ Ngát một thức xanh xanh”.
Chiếc dĩa  có tên “Tùng quân”,  vẽ đàn cá bơi đớp bóng trăng, đàn chim bay trên không giữa cảnh non nước, với 2 câu thơ của Hàn Than thời Trần: “Hàn than ngư hấp nguyệt/Cổ lũy nhạn minh sương”.
Hai chiếc dĩa vẽ toàn cảnh núi Thúy Vân và chùa Thánh Duyên, hai thắng cảnh mang trong mình những sự tích từ thời Vua Gia Long. Trên đĩa vẽ chùa Thánh Duyên có chép thơ của Vua Thiệu Trị(1840-1847), thấm chất thiền: “Gió thiền chuông điểm rừngsâu dội/ Cõi diệu hương đưa biển pháp nhuần/ Cây vướng mây lành lên cảnh Bụt/ Đường xuyên guốc sãi lấm hồng trần…”.
Chiếc dĩa hiệu đề “Tân Sửu niên chế”, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, từ thế kỷ XVIII- XIX vẽ toàn cảnh chùa Bạch Tự với thơ đề: “Đăng đạo bàn hư không/Đăng lãm ấp vô cùng/ Lệ cảnh vu thành mãn/ Nghiễm nhập họa đồ trung”. (Tạm dịch: Bậc đá quanh co đến cõi không/ Lên cao mắt thấy thật vô cùng/ Khắp nơi cảnh đẹp, thành hoang vắng/ Người nhập vào tranh thỏa ước mong).
Đĩa vẽ cảnh chùa Thánh Duyên.
Đĩa vẽ cảnh chùa Thánh Duyên.
Ngòai những chiếc dĩa vẽ cụ thể một danh thắng, còn nhiều dĩa khác vẽ phong cảnh với những bài thơ Nôm họa lại bằng ngôn ngữ. Ngắm dĩa, đọc thơ, vẻ đẹp như được tăng thêm, không phải là cổ vật bằng sứ vô tri, mà hình như có hồn xác lay động thật sự.
Những chiếc dĩa mang các bức vẽ sự tích, điển tích rất nhiều, nhưng có lẽ “gần” với dân gian người Việt là những điển tích “Ngưu Lang Chức Nữ”, “Từ Thức gặp Giáng Hương”, “Lưu Nguyễn nhập thiên thai”, “Như chim liền cánh, như cây liền cành”, “Long Hổ tranh hùng”, “Cá chép hóa rồng”, “Ngư ông đắc lợi”…
Với những ai có một chút kiến thức về Nho học, có thể tìm thấy trên nét vẽ và những câu thơ chép ở bộ sưu tập dĩa trà ký kiểu này nhiều bài học về “đạo” làm người, đối nhân xử thế, như dĩa “Đạp tuyết tầm mai”, “Tam cố thảo lư”,… Những bậc thi nhân yêu cái đẹp của Đường thi, cũng có thể tìm được tri âm từ các hình ảnh họa lại thơ của các thi nhân nổi tiếng thời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Vương Xương Linh, Giả Đảo, Bạch Cư Dị…
Và thật thiếu sót, nếu như không nhắc tới một chủ đề thú vị, đầy cảm hứng, đầy sự phấn khích và cũng rất ý nghĩa, thích hợp với mùa xuân, khi Tết Nguyên Đán, mở đầu cho một năm mới của đời người, vạn vật, cây cối, thiên nhiên. Đó là những chiếc dĩa trà mang các nét vẽ, chép những câu thơ chúc phúc rất đẹp.
 Phi minh túc thực.
Phi minh túc thực.
Dĩa “Tam Tinh chúc thọ”, ông Phước tay cầm gậy Như Ý, ông Lộc tay cầm hốt đứng trên đài cao dưới cội thạch tùng, ông Thọ cưỡi hạc bay đến.Dĩa vẽ tiên ông Lam Thái Hòa, với đề tài Cát- Tường: “Thái hòa hạc lộc trường xuân”.
Dĩa vẽ hiệu đề chữ Nhân, cầu chúc gia đình hạnh phúc: “Thọ Lộc song tòan”. Dĩa vẽ một cổ thụ mọc chênh vêng trên vách núi đá ven biển, trên có mặt trời tỏa sáng, hiệu đề Gia Lạc: “Phước như Đông Hải, Thọ tỉ Nam Sơn”.
Dĩa vẽ hai con nai đực - cái đùa giỡn dưới hai cội tùng, bóng trăng tròn vành vạnh giữa hư không, ngụ ý: “Gia đình hạnh phúc viên mãn”.
Dĩa vẽ bốn con hạc, tượng trưng cho “phi, minh, túc, thực”- hạc đang bay, hạc ngỏng cổ kêu, hạc đứng yên, hạc tìm mồi ăn, có hai cội tùng cổ thụ,mang ý nghĩa: “Tùng hạc diên niên”- cầu chúc khỏe mạnh, trường thọ…
Một chút phiêu diêu trong thế giới đồ sứ ký kiểu “Ngự dụng” triều Nguyễn thế kỷ 18-19, lúc trời đất đang vào xuân, có cảm giác như đang lạc vào một thế giới cổ tích.
Xem những nét vẽ màu lam trên màu men sứ trắng, đọc những câu thơ vượt thời gian đã trở thành tài sản văn hóa nhân loạiđược chép bên cạnh các bức vẽ, như cảm được thông điệp của các nghệ nhân tài hoa xưa đã gửi gắm cho đời sau, lưu giữ cái đẹp, để con người sống thiện lương, nhân gian hạnh phúc, bình an, no ấm.
Ngòai sự am hiểu, thông tuệ sâu sắc về đồ cổ, về mỹ thuật xưa của từng thời đại, thời kỳ, trường phái… thưởng ngoạn “chữ” trên đồ sứ ký kiều “Ngự dụng” triều Nguyễn còn là người phải có cái tình hòai cổ, tình tri âm với cổ vật, và thêm một chút thuộc về tâm linh,biết “nói chuyện” với những món đồ cổ, khám phá những thông điệp thời gian được ấn ký trên những món đồ của người xưa.
Rồi truyền đạt cho người đương thời, để như nối sợi dây giữa xưa- nay, quá khứ- hiện tại, để có thể hiểu được những gì người xưa đã để lại mà tự hào, giữ gìn, bảo tồn, phát huy.
Trong nhiều hình thức hấp dẫn của bao trò vui xuân, một khoảng không gian dành cho những ai thích thú vui “tĩnh”, có thể tận hưởng thưởng ngoạn đồ sứ cổ, và nếu cảm hứng có thể lấy “mực tàu giấy đỏ” viết một chữ thích nhất cho riêng mình vào năm mới. Tại sao không, khi ngoài kia xuân đã rạo rực, đã háo hức mời gọi đầy quyến rũ.
CTV Hoài Hương/VOV

Có thể bạn quan tâm