(GLO)- Nghề rèn luôn có vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống. Thời kỳ hội nhập, nghề rèn vẫn còn khẳng định vị trí trong các nghề truyền thống ở nhiều nơi, trong đó có huyện Chư Prông, Gia Lai.
Một trong những hộ mở lò rèn lâu đời nhất ở xã Ia Drăng (huyện Chư Prông) là gia đình ông Hoàng Xuân Trường ở thôn Hợp Hòa. Ông Trường (quê tỉnh Hà Nam) năm nay bước sang tuổi 56 và bền bỉ “giữ lửa” nghề rèn truyền thống của dòng họ suốt hơn 40 năm qua. Hơi nóng lửa than, tiếng ống bễ phì phò, tiếng búa nện xuống đe chát chúa, tiếng mài ken két của kim loại đã trở thành một phần cuộc sống thường ngày của người thợ này.
Hàng ngày ông Trường vẫn chuyên tâm bên lò rèn để sản xuất nông cụ. Ảnh: H.P |
Từ sáng sớm, lò rèn của ông Trường đã đỏ lửa. Trong gian nhà rộng chừng 20 m2, 3 người đàn ông thoăn thoắt tay búa, đều và nhịp nhàng như múa. Để làm ra một sản phẩm, người thợ rèn phải trải qua rất nhiều công đoạn, từ cắt sắt tạo hình, nung, đập, luyện, rồi lại nung, đập cho tới khi định hình sản phẩm thì đến khâu mài, giũa... Dường như những công đoạn ấy đã “ngấm vào máu” nên chẳng ai bảo ai mà thao tác vẫn thuần thục, thoăn thoắt.
Ông Trường và một người nữa phụ trách nung, gò sắt thành phôi. Khi chiếc quạt khò thổi lò than hồng rực, ông Trường nhanh tay cời than rồi cầm cây kẹp dài gắp từng lưỡi dao đưa vào, xoay trở vài lần cho nóng đỏ rồi chuyển ngay ra đe, quai từng nhát búa uy lực mà đầy khéo léo. Còn cháu trai ông Trường thì đảm nhận công đoạn mài chuốt cho lưỡi dao thật sắc. Cứ thế, “2 người làm nóng, 1 người làm nguội” rất nhịp nhàng.
Anh Chinh-cháu trai ông Trường-chia sẻ: “Đầu tiên, chú Trường nhờ tôi làm giúp một số việc ở đây. Tuy nhiên, càng làm, tôi càng thấy mê, rồi tự đến với nghề lúc nào không hay. Bây giờ, tôi cũng đã làm được một số công đoạn sau rèn như mài giũa sản phẩm”. Ông Trường cho biết thêm: “Ở đây chủ yếu làm sản phẩm dao cạo mủ cao su cho công nhân, ngoài ra cũng làm một số nông cụ khác cho bà con dân tộc thiểu số”. Nói về thu nhập từ nghề này, ông Trường quệt mồ hôi trả lời: “Chỉ đủ cho con cái ăn học thôi, chứ chẳng dư dả gì”.
Tranh thủ lúc nghỉ tay, ông Trường tâm sự: Từ bé, ông đã thấy ông nội, bố và các chú làm nghề rèn. Người dân trong vùng, thậm chí từ vùng khác cũng tìm đến đặt làm những vật dụng cần thiết trong gia đình và dụng cụ lao động như: dao, liềm, cuốc, rựa, xẻng, lưỡi cày… tùy theo nhu cầu. “Chẳng có món đồ nào làm khó được tay nghề của ông cụ thân sinh tôi cả. Cái khó nhất lúc ấy có lẽ là nguyên liệu sắt thép để rèn rất hiếm chứ không nhiều như bây giờ”-ông Trường kể. Nhờ siêng năng, chịu khó, năm 15 tuổi, ông Trường đã tự mình rèn hoàn chỉnh một sản phẩm, từ việc lựa chọn sắt, nổi lửa bếp lò cho đến nung, đe búa, hàn gò, cưa, mài…
Chiều muộn, chị H'Nul (công nhân Nông trường Cao su Đoàn Kết, Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông) ghé qua nhà ông Trường lấy dao cạo mủ. Khi tôi hỏi vì sao lại đặt làm ở đây, chị H'Nul tươi cười cho biết: “Chú Trường đánh dao tốt lắm, dao vừa sắc mà lại bền, cạo ra nhiều mủ. Người làng mình cũng hay lên đây đặt mà”.
Theo nghề suốt mấy chục năm nay nhưng chính ông Trường cũng phải ngậm ngùi: “Thực tâm, chúng tôi luôn muốn giữ lấy nghề rèn gia truyền, bởi đây là tâm huyết của cha ông mình để lại, là văn hóa và lịch sử của quê hương. Nhưng quả thực làm nghề “thổi lửa nung sắt” này rất cực nhọc, chỉ người sức dài vai rộng và kiên nhẫn với nghề thì mới theo được. Vậy nên con cháu không muốn nối nghiệp thì cũng khó trách”.
Theo ông Phạm Quý Ứng, Trưởng phòng Tài chính-Kế hoạch huyện Chư Prông, trên địa bàn hiện có 6 hộ làm nghề rèn. Tuy nhiên, đây chưa phải là con số chính xác vì có một số cơ sở không đăng ký. Địa phương cũng ghi nhận nghề này mang lại thu nhập chính cho hộ gia đình, giải quyết việc làm tại chỗ. Nhưng giờ đây, nói đến nghề rèn, đa số lớp trẻ đều lắc đầu. Đã thấy rõ sự mai một bởi sự thờ ơ của lớp người kế cận. Nên chăng địa phương cần quy hoạch nghề rèn thành một trong những nghề truyền thống cần được lưu tâm để đảm bảo tính kế thừa bền vững?
HÀ PHƯƠNG