Bạn đọc

Vì sao Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị tái thẩm?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Sau hơn 8 năm ròng rã đi kiện, ông Nguyễn Thế Hùng (trú tại tổ dân phố 4, thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai) mới nhận được Quyết định số 03 của Tòa án nhân dân (TAND) tối cao về việc kháng nghị tái thẩm đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 11 ngày 14-12-2010 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng. Theo đó, TAND tối cao quyết định: Đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử theo thủ tục tái thẩm; hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 11 ngày 14-12-2010 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 12 ngày 12-7-2010 của TAND tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, tạm đình chỉ thi hành Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 11 ngày 14-12-2010 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng cho đến khi có quyết định tái thẩm.
 

Vợ chồng ông Nguyễn Thế Hùng kể lại việc đi kiện. Ảnh: H.C
Vợ chồng ông Nguyễn Thế Hùng kể lại việc đi kiện. Ảnh: H.C

Trước đó, ngày 26-8-2009, bà Thái Thị An (trú tại tổ dân phố 2, thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai) đã làm đơn khởi kiện ông Nguyễn Thế Hùng. Theo bà An: Từ ngày 30-1-2007 đến ngày 2-2-2007, ông Hùng đã ứng của bà An tổng cộng 2,78 tỷ đồng, tương đương 127.803 kg cà phê nhân quy chuẩn. Từ ngày 20-1-2007 đến ngày 9-2-2007, ông Hùng đã giao cho bà 74.614 kg cà phê nhân quy chuẩn, còn nợ 53.189 kg cà phê, tương ứng với hơn 1,16 tỷ đồng... Đến ngày 14-12-2010 (ngày xét xử phúc thẩm), ông Hùng còn nợ bà An 40.388 kg cà phê nhân quy chuẩn. Do vậy, bà An yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Hùng phải trả số nợ nêu trên cho bà.

Ông Hùng thừa nhận có ứng của bà An 2,78 tỷ đồng. Ngay sau khi ứng số tiền này, ông Hùng đã giao lại cho vợ chồng ông bà Phạm Văn Từ-Nguyễn Thị Minh (ở tổ dân phố 6, thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai). Sau đó, vợ chồng ông Từ dùng số tiền này đi thu mua cà phê về xay xát giao cho bà An. Ông Hùng không thừa nhận số nợ như bà An khởi kiện vì thực tế việc mua bán cà phê là “quan hệ tay ba” giữa ông, bà An và vợ chồng ông Từ.

Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 12 ngày 12-7-2010 của TAND tỉnh Gia Lai quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà An (nguyên đơn); xử buộc ông Hùng (bị đơn) phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà An 39.658 kg cà phê nhân xô quy chuẩn... Ngày 23-7-2010, ông Hùng kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm kể trên. Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 11 ngày 14-12-2010 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của ông Hùng; giữ nguyên Bản án số 12 ngày 12-7-2010 của TAND tỉnh Gia Lai...

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Hùng có đơn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 11 ngày 14-12-2010 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng. TAND tối cao xét thấy: Việc mua bán cà phê là “quan hệ tay ba” giữa ông Hùng, bà An và vợ chồng ông Từ. Ông Hùng chỉ là trung gian nhận tiền từ bà An sau đó đưa cho vợ chồng ông Từ đi mua cà phê giao lại cho bà An. Điều này được minh chứng trong giấy biên nhận ngày 30-1-2007 có nội dung ông bà Từ-Minh nhận của ông Hùng 1,08 tỷ đồng; giấy xác nhận ngày 19-10-2005, ông Từ thừa nhận có giao cà phê nhiều lần cho bà An; sổ gốc ghi chép việc bà An đã nhiều lần nhận cà phê nhân của ông bà Từ-Minh...”. Thực tế, theo số liệu thể hiện trong sổ ghi của ông Từ thì số lượng cà phê giao cho bà An vào các ngày 2, 3, 4 và 9-2-2007 đều trùng khớp với các phiếu cân do bà An xuất trình tại Tòa. Như vậy, có căn cứ xác định khi nhận tiền của bà An, ông Hùng giao lại số tiền này cho ông Phạm Văn Từ, bà Nguyễn Thị Minh để ông Từ, bà Minh giao cà phê cho bà An. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa vợ chồng ông Từ, bà Minh vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà chỉ căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do bà An xuất trình để buộc ông Hùng trả cho bà An số cà phê còn thiếu là chưa chính xác...” (trích Quyết định số 03 của TAND tối cao kháng nghị tái thẩm nêu trên).

Mặt khác, trong sổ ghi việc giao nhận cà phê của ông Từ xuất trình có thể hiện ngày 6-2-2017 bà An nhận tổng cộng 15.085 kg cà phê và ngày 7-2-2007 bà An nhận 11.103 kg cà phê. Kết luận giám định của Công an tỉnh Gia Lai tại Công văn số 236 ngày 12-7-2016 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Gia Lai đã khẳng định chữ viết và chữ ký là của bà An. Do vậy, nếu bà An không chứng minh được số cà phê này là của giao dịch khác thì phải xác định số cà phê này là của vợ chồng ông Từ thực hiện nghĩa vụ giao cà phê cho bà An thay cho ông Hùng. Đây là tài liệu mới được cung cấp, có thể làm thay đổi căn bản kết quả giải quyết vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét, đánh giá nên là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.

Hoàng Cư

Có thể bạn quan tâm