(GLO)- Bây giờ thì người ta có thể ngồi một chỗ gọi điện đặt vé các hãng xe để đi đến mọi miền đất nước. Và cũng không cần ra bến, xe trung chuyển đến đón tận nhà. Thế nhưng, vào những năm cuối thập niên 70 và suốt thập niên 80 thế kỷ trước, đó là chuyện chỉ có trong mơ.
Tôi quê ở huyện Tuy Phước (tỉnh Bình Định), lên xã B14, huyện Chư Păh cũ (nay là xã Ia Tô, huyện Ia Grai) công tác từ năm 1977. Mỗi năm ít nhất có 2 lần tôi về thăm gia đình vào dịp Tết và nghỉ hè. Phương tiện di chuyển bấy giờ hầu hết đều bằng xe đò.
Xin được nói thêm về xe đò một chút bởi đã xe sao lại còn đò? Thực ra, chỉ những người miền Trung và miền Nam mới dùng từ xe đò, còn người miền Bắc thì gọi là xe khách hoặc xe ca. Nhà văn Sơn Nam giải thích, khi xưa vùng đồng bằng Nam Bộ sông rạch chằng chịt nên phương tiện đi lại chủ yếu bằng đò, ghe. Mãi đến những năm 30 thế kỷ trước, người Pháp mới thành lập một vài hãng xe chở khách đi miền Tây. Bấy giờ, đường bộ chưa phát triển, xe đến bến, khách phải chuyển tiếp bằng đò, ghe nên người ta gọi luôn là xe đò cho tiện. Hầu hết các chủ xe đi miền Trung cũng là người Sài Gòn nên xe đò trở thành phương ngữ chung.
Hẳn mọi người còn nhớ sau ngày giải phóng, các tuyến có cự ly gần như Pleiku-Quy Nhơn, Quy Nhơn-Quảng Ngãi… thường sử dụng các loại xe ô tô đời cũ như Renault của Pháp, xe Dodge gác máy Desoto, xe GMC độ chế lại, thậm chí lúc này do thiếu xăng dầu nên rất nhiều xe phải dùng than củi tạo khí gas để chạy máy. Đó là một cái thùng sắt lớn đường kính khoảng 50-60 cm, cao trên 2 m đặt đứng và gắn chặt phía sau xe, bên trong chứa than củi. Than cháy trong điều kiện thiếu không khí nên tắt dần, bởi vậy cứ chạy chừng chục ki lô mét, phụ xe lại dùng một que sắt dài khều than, chọc tro để than cháy tiếp.
Những năm 1976-1980, nếu đi từ Pleiku về Quy Nhơn thì rất nhiêu khê, tốn nhiều thời gian (ấy là chưa tính đi Buôn Ma Thuột còn khó khăn hơn bởi bấy giờ bọn FULRO vẫn lén lút hoạt động dọc đường 14 nên phải về Quy Nhơn ở lại, rồi hôm sau đi vào Ninh Hòa, ngược đèo Phượng Hoàng lên). Tôi thường phải ra bến sắp hàng mua vé từ chiều hôm trước. Mặc dù giáo viên miền núi ngày ấy được cấp thẻ ưu tiên mua vé tàu xe nhưng không mấy khi được ngồi băng ghế chính mà chủ yếu là đứng trong thùng xe hoặc đu bám phía sau. Sáng hôm sau xe khởi hành khoảng hơn 8 giờ nhưng phải đến chiều tối mới về tới Quy Nhơn.
Ảnh minh họa: INTERNET |
Chậm là phải thôi, hãy thử tưởng tượng: đường xấu, xe chạy bằng than, ì ạch, đã vậy chốc chốc lại ngừng dọc đường đón khách và bốc xếp hàng hóa. Ngày ấy, hành khách đi xe chủ yếu là người mua bán, mùa nào thức ấy (bí đỏ, su su, buồng chuối, lồ ô, bông đót…) hàng chất cao ngất trên trần xe, thậm chí còn xếp kín cả trong thùng xe với hành khách. Xe đã chật chội lại thêm mùi người, mùi dầu, mùi khói, mùi hàng hóa… trộn lẫn với nhau đến ngột ngạt khó thở.
Xuống đến Trạm Kiểm soát Song An tại đầu đèo An Khê thì xe phải dừng lại để kiểm tra (cảnh sát giao thông, kiểm lâm, thuế vụ, kiểm dịch động vật). Những người buôn bán cũng phải vào trạm để khai và đóng thuế mất cả tiếng đồng hồ. Các nhân viên thuế, kiểm lâm dùng chiếc thuốn sắt dài trèo lên mui xe chọc chọc vào các bao hàng, luồn dưới gầm xe xem có chở hàng cấm hay không, kể cả hành khách ngồi trên xe cũng được kiểm tra gắt. Những người bán hàng rong tha hồ rảo quanh xe mời chào.
Đi xe đò từ Quy Nhơn lên Pleiku thì nhanh hơn, chỉ trong một buổi sáng, thế nhưng buổi chiều cũng phải nghỉ lại để sáng hôm sau đón xe lên huyện. Ngày ấy, từ Bến xe liên tỉnh vào khu vực trung tâm thị xã phải đi một lượt xe lam 3 bánh. Xe lam là loại Lambro 550 có 2 hàng ghế trong thùng phía sau, mỗi hàng ghế chở được 4 người. Phía trước ca bin, ngồi hai bên tài xế được 2 người khách nữa. Tuy nhiên, không mấy khi xe chở đúng số lượng quy định mà thường là 12-13 người. Nặng nên khi bò lên dốc Diệp Kính thì 2 người bám đứng sau bửng xe phải nhảy xuống phụ đẩy xe lên, đôi khi cả 2 người khách trước ca bin cũng thế.
Bấy giờ, trên tuyến tỉnh lộ 664 có 2 chiếc xe đò dòng Dodge lưu hành, tất nhiên là chỉ trong mùa khô, còn mùa mưa thì đành chịu. Một chiếc anh Bốn Sơn, còn chiếc nữa là của một người từ Ayun Pa lên chở khách. Xe khởi hành từ Bến xe thị xã và chỉ chạy đến bến cuối là ngã ba Cây Cầy thuộc xã B14, chở theo khách, thư từ cùng các loại hàng hóa thiết yếu cung ứng cho các quán trong xã như: gạo, mắm muối, cá khô, rau… Hàng hóa nhiều, thùng xe nóng, ngột ngạt nên nhiều vị khách trèo lên ngồi hẳn trên nóc ca bin và trần xe, nguy hiểm thật nhưng phải nói thêm là bấy giờ Luật Giao thông Đường bộ chưa ra đời và cũng may là hiếm khi xảy ra tai nạn đáng tiếc.
Đến giữa những năm 80 thì xuất hiện dòng xe IFA. Tuy nóng nhưng đã có ghế ngồi hẳn hoi. Rồi hơn chục năm sau đến dòng Hyundai máy lạnh, xe giường nằm và hiện nay là những chiếc Limousine được tôn vinh như “khách sạn 5 sao di động” hay “chuyên cơ mặt đất” phục vụ hành khách đến tận răng. Ngồi tại nhà có xe trung chuyển đến rước, từ xã B14 người ta có thể đi bằng xe đò đến bất cứ đâu trên đất nước và nơi nào xa lắm cũng chỉ không quá 1 ngày 2 đêm, ví như ra Cao Bằng hay ngược Hà Giang chẳng hạn.
Bây giờ mỗi khi có dịp lên xã B14 (huyện Ia Grai), nhiều người vẫn nhắc về cái thời ngày một chuyến xe đò cùng lời cảm thán: Ngày ấy cực sao mà cực!
THANH PHONG