Bây giờ, lá mì đã trở thành đặc sản. Các tour du lịch ở Tây Nguyên thường đưa món ăn này lên đầu bảng cùng với cơm lam, gà nướng. Nhiều nhà hàng cũng luôn sẵn sàng phục vụ thực khách các món được chế biến từ lá mì như: lá mì cà đắng, lá mì thịt hộp…
Ở làng, những năm kinh tế còn khó, lá mì thường chỉ đồng hành cùng muối và ớt, có thêm chút bột ngọt đã là... xa xỉ. Năm thì mười họa, nhân dịp gia đình mổ heo hay giết gà để cúng, món lá mì có thêm chút thịt ba chỉ hoặc bộ lòng mề thái nhỏ, được xem là đẳng cấp nhất của sự sang trọng rồi. Lá mì giã nhuyễn trong cối gỗ hoặc được nấu như canh đặc trong nồi là 2 món chủ lực gần như quanh năm ở làng. Lá mì hẳn không có chất bổ gì đáng kể, nhưng trong hoàn cảnh bắt buộc thì nó lại là một sự lựa chọn của đại đa số các cộng đồng cư dân Tây Nguyên.
Lá mì đã trở thành đặc sản ẩm thực không chỉ ở Gia Lai. Ảnh: N.Q.T |
Lá mì là cách gọi chung. Trên thực tế, nhiều người, trong đó có tôi, thường hái lá non và bẻ ngang ngọn cây mì về làm món. Ngọn mì non luộc ăn bùi bùi rất thích nhưng ở làng, vô cùng ít nếu không muốn nói là không ai ăn ngọn mì. Bà con thường chọn lá mì bánh tẻ (không quá non), rửa sạch, vò kỹ, vắt nước đi rồi cho vào cối để giã hoặc bỏ vào nồi để nấu. Nhiều năm quan sát, tôi không thấy người ở làng bẻ ngọn mì hay bứt những lá quá non để chế biến món ăn.
Trong những lần về làng có nấu ăn chung, tôi thường xung phong đi hái lá mì. Để cho nhanh và món ăn ngon hơn, tôi luôn chọn những chỗ mì tốt và bẻ ngang một số ngọn cây, sau đó về bếp lựa chọn lại một lần nữa. Đồng nghiệp đi cùng khen tôi tháo vát, trong khi bà con Bahnar, Jrai có mặt khi đó lại chỉ tủm tỉm cười. Họ không khen cũng không chê, chỉ lặng lẽ chế biến món ăn. Chưa bao giờ tôi thấy việc ấy là lạ nên cũng không hỏi lại xem mình đi lấy lá mì như thế có đúng không. Phải rất lâu sau này, tôi mới biết mình đã sai.
Việc luôn thấy những rẫy mì bát ngát quanh làng, thậm chí ngay sau vườn nhà hoặc um tùm nơi hàng rào đã cho tôi một suy nghĩ rằng: Lượng lá của thứ cây dễ trồng ấy được hái làm thức ăn cho một bữa chẳng đáng là bao, nên cứ lấy tùy thích. Hơn thế, thay vì hái lá, tôi thường bẻ cả ngọn cây mì, một điều không cấm kỵ nhưng rất hiếm khi xảy ra ở làng, nhất là đối với những người cao tuổi. Theo các ông bà, cây có cái ngọn để vươn lên, mình bẻ đi thì nó đớn đau đã đành, mà củ mì cũng sẽ ảnh hưởng nhiều. Khi nghe điều này, tôi đã cố cãi lại, đại ý: Bẻ mấy cây thôi, đâu phải bẻ cả rẫy mì mà lo? Những người cao tuổi đã nhỏ nhẹ nhắc nhở tôi rằng: Bẻ được một cây là bẻ được cả rẫy. Ở làng không ai làm thế.
Sau này, khi hiểu biết hơn về buôn làng một chút, mỗi lần nghĩ về món lá mì, tôi lại thấy hiện lên trước mắt mình những vùng đất cằn cỗi đã đi qua. Ở đó, mùa nắng nóng, hái lá mì xong, bà con phải rũ bụi đi trước khi rửa sạch để chế biến. Tôi ăn lá mì nhiều đến mức thành thói quen, lâu không được ăn thì thấy nhớ. Nhưng tôi đã không để ý, không hiểu được kỹ năng và triết lý sống của người Bahnar, Jrai về món đồ ăn này. Từ bài học về lá mì, tôi càng hiểu thêm vì sao xưa kia người Tây Nguyên lại “ăn rừng” không giống như ngày nay; vì sao trước khi chặt một cây xanh, bà con luôn phải cúng xin thần linh.