Phóng sự - Ký sự

Bước thăng trầm ở làng tranh Đông Hồ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Khoảng năm 1945, làng Đông Hồ có 17 dòng họ thì tất cả các dòng họ này đều làm tranh.

Trong những ngày cuối năm lạnh, dưới màn mưa lất phất, có thoảng gợi không khí mùa xuân và cả chút nỗi niềm chia tay một năm đã qua, tôi được ngồi trong xưởng tranh của một người “muôn năm cũ” ở một ngôi làng đã nhiều đổi mới, để trò chuyện về một nghề xưa của cha ông đã gần 600 trăm. Đó là nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

buoc-thang-tram-o-lang-tranh.jpg
Niềm vui người làm nghề tranh Đông Hồ.

Chợ tranh Tết xưa và chuyện những “anh hàng tờ”

Trong không khí đó, chợt thấy sao mà cách dùng từ của cụ Vũ Đình Liên đắt giá đến vậy, “muôn năm cũ” gợi lên cái hoài niệm tựa như xuyên qua hàng thế kỷ, hàng bao nhiêu số phận, lại khiến cho ta vương vấn và cũng không nguôi hy vọng, nhìn về phía trước.

Nhớ lại thuở xưa, ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, những phiên chợ Tết luôn là sự chờ đợi suốt hơn 360 ngày trong năm. Chợ tranh Tết ban đầu là nhu cầu của người làm tranh, làm nhiều thì phải mang ra chợ bán, mà chợ Tết hẳn là đông vui nhất, là phiên mà người ta tiêu tiền ít đắn đo hơn. Chính vì vậy, không chỉ người lớn, đám nhỏ trong nhà cũng nôn nao trước mỗi phiên chợ cuối năm.

“Ngày hôm trước phiên chợ bao giờ cũng bận rộn nhất, phải dậy từ tờ mờ sáng, chuẩn bị tranh, sắp xếp xem các loại tranh bộ thì đem tranh gì, tranh thờ đem tranh nào… Đóng buộc vào một cái bao tải, sau đó chằng sẵn vào xe đạp. Hồi chúng tôi còn bé thì đi những cái chợ gần, cách nhà khoảng độ 10-15 cây số. Có những chợ xa hơn thì cách vài chục cây”, nghệ nhân ưu tú Nguyễn Hữu Quả (làng Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) say sưa nhớ lại. “Không có nhà trọ, khách sạn như bây giờ, nhưng những người bán tranh thường được người ta mời vào ở tạm, cho ăn… đó là cái tình của người thời xưa, mà thợ làm tranh chúng tôi còn có được”.

Đó là với lớp trẻ nhỏ, còn công việc bán tranh Tết ở nơi xa hơn, vất vả hơn thì dành cho những bậc thanh niên, cha chú. Cũng với gia tài là những bức tranh, họ đi tới tận những chợ vùng núi, đi vùng xa sâu như mạn Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, thậm chí lên đến tận Tuyên Quang (vùng Tuyên Hóa theo tên gọi xưa)… Chính vì chợ xa, nên người bán tranh phải ở lại hàng tuần, hàng tháng cho bõ công đi lại. Và các nghệ nhân đi bán tranh ấy thiệt thòi hơn người khác rất nhiều, đôi khi 30 Tết mới trở về đoàn tụ cùng gia đình, thậm chí có những người vì tiếc rẻ phiên chợ chiều 30 mà đến sáng ngày đầu năm mới rồi cũng chưa trở về được quê hương bản quán.

“Thế cho nên người xưa mới có câu ca dao là “thừa con chẳng gả cho anh hàng tờ - đến 30 Tết vẫn bơ vơ ngoài đường”. Anh hàng tờ chính là chỉ những người làm tranh, bán tranh Đông Hồ như chúng tôi đấy” - chú Quả ngậm ngùi kể.

… Những “anh hàng tờ” thức thời.

Ấy là ca dao nói vui vậy thôi chứ người làm nghề tranh Đông Hồ cũng thức thời lắm lắm, điều đó thể hiện qua cả sự phát triển của các dòng tranh cho đến chủ đề được đưa vào tranh xưa.

Dòng tranh Đông Hồ ban đầu là tranh vẽ. Theo lời kể của chú Quả, khi thị trường mua nhiều quá, các cụ vẽ không kịp, bèn tạo ra loại tranh vừa in vừa khắc. Nghĩa là tranh được đục nét đen, rồi dùng bút lông vẽ lại tranh mang sắc thái đen trắng của tranh thủy mặc. Còn loại thứ 3 là dùng mộc bản tạo tranh và sau đó in lại trên giấy dó phủ điệp. Và loại cuối cùng, nhờ biến từ mộc bản âm thành dương bản để tạo ra một dòng tranh mới là tranh gỗ. Nhờ có mộc bản mà tranh Đông Hồ được in ra nhanh hơn thể loại vẽ xưa, đáp ứng nhu cầu thị trường bấy giờ và tạo nên di sản đặc trưng của làng tranh này cho đến tận ngày nay.

Tuy nhiên, ván gỗ dù có vai trò như một chiếc “máy photocopy” nhưng vẫn mang đậm tính thủ công và dấu ấn của mỗi nghệ nhân. Bởi vì với ván khắc gỗ, người thợ làm tranh ở các công đoạn vẫn phải tạo mẫu, phân mảng tranh, in ấn thật sắc nét… bằng tay thì mới có thể tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh.

Tạo mẫu là khâu rất quan trọng. Để tranh sống được trong lòng người thưởng thức, bán được trên thị trường, thì mẫu tranh đó phải đi vào lòng người, phải đúng với nội tâm và mong muốn của người thưởng thức. Để làm được điều đó, người ra mẫu phải rất am hiểu văn hóa truyền thống để đưa vào mẫu tranh. Chú Quả tâm sự: “Trong cuộc sống, mình cũng thấm đẫm văn hóa này và thấy rõ những giá trị đạo đức đã đúc kết hàng nghìn năm đã được cha ông kết tinh và truyền lại cho thế hệ sau. Thí dụ như ngũ phúc, ngũ thường, thí dụ như tứ đức của người phụ nữ… đó là những giá trị cốt lõi, ngày nay dù có thay đổi nhưng vẫn là nền tảng không thể mất đi. Nhờ những bức tranh mà truyền lại được cho thế hệ sau, đến tận ngày nay”. Chú cũng chia sẻ thêm: “Đó là những giá trị mà ngày nay người ta đã quên đi nhiều quá. Tôi cố gắng làm nghề không chỉ vì yêu việc làm tranh, mà còn để phần nào cứu vãn, giữ lại những giá trị văn hóa trong tranh xưa”.

Sự thức thời của người làng Hồ thể hiện qua các mẫu tranh. Ban đầu các cụ cũng làm mẫu theo đời sống, văn hóa… những mẫu giản dị như con gà, con lợn, cho đến các lễ hội, hay giá trị sống đều được đưa vào. Nhưng khi đưa ra thị trường, thì các mẫu như phúc lộc song toàn, bình an… được mua nhiều, vì ai cũng mong muốn sự may mắn, thiện lương. Còn những tranh mang chủ đề như khẩu thiệt (hai người cãi nhau)… thì ít người treo. Từ đó, người làng tranh sẽ dần bỏ đi những mẫu không được ưa chuộng, thể hiện cái nhìn nhạy bén về thị trường và linh hoạt trong lao động, sáng tạo.

Người xưa cũng dạy con làm nghề từ rất sớm. Như chú Quả, từ khi 5-7 tuổi đã bắt đầu phải tập tành và đảm nhiệm một mảng công việc, từ những công đoạn vừa sức mình, như tô mầu hay vẽ… “Làm đi làm lại, đến lúc các cụ duyệt, thấy ưng ý thì mới được”, chú cho hay. Năm tháng rèn luyện như vậy khiến cho những người con làng nghề trở thành những “tay siêu sao” trong ngón nghề làm tranh.

Nhớ lại những ngày làm trong hợp tác xã, với định mức khoán thí dụ 100 bộ tranh khoảng 18 công, thì những người lành nghề như chú Quả làm chỉ hết khoảng 8 công. Hoặc là khoán khoảng nửa cân màu, thì người có nghề chỉ làm hết khoảng ba lạng, tiết kiệm được nguyên liệu rất nhiều so với nhân công bình thường.

Sự rèn luyện như vậy cũng tùy thuộc vào công việc và nề nếp của mỗi một gia đình, mỗi nghệ nhân. Nhưng không chỉ có vậy, nếu xét về kỹ thuật thì những người lành nghề chỉ cần nhìn màu là biết đó là tranh của gia đình nào. “Bởi vì màu thể hiện sự tinh tế của một bức tranh, khác nhau ở độ đậm độ nhạt, ở độ vờn màu, tản màu… như thế nào. Cũng là tranh ôm gà với trâu thổi sáo, tưởng giống nhau nhưng nhìn sản phẩm của ai là người trong nghề biết ngay”, chú Quả bật mí.

Tuy nhiên, khi còn bé làm khâu tô màu không có nghĩa tô màu là dễ và công đoạn khác là khó. Theo lời chú Quả, các khâu đều đóng góp phần quan trọng vào vẻ đẹp của một bức tranh. “Bởi vậy, khi có ai đó hỏi rằng, trong dòng tranh Đông Hồ của anh mấy trăm mẫu thì anh thấy đứa con tinh thần của anh quý nhất là đứa nào, thì tôi nói rằng, tất cả các sản phẩm của tôi đều quý như nhau, mỗi tranh có một nội dung, mỗi tranh có một cái thông điệp và phản ánh một góc độ và ý nghĩa khác nhau”.

Hành trình sống với nghề của nghệ nhân

Dù đã được cha ông truyền dạy kỹ lưỡng như vậy và có thời gian làm nghề không hề ít, nhưng để lập nghiệp và làm nên tên tuổi riêng vẫn là một thử thách với bất kỳ ai, đặc biệt khi muốn trở thành một nghệ nhân thực thụ.

Đến năm 38 tuổi, chú Quả mới chính thức được cụ thân sinh đưa ra làm xưởng riêng, đó là cách để con cái trưởng thành và giữ nghề.

“Khi mình ra làm riêng thì khó khăn nhiều vô kể, đặc biệt với một nghệ nhân trẻ chưa có danh tiếng. Quan niệm thời xưa ở mình ấy là chưa biết tranh đẹp, tranh xấu ra sao, cứ nói đến nghệ nhân là thích mua của người già. Rồi ban đầu có nhiều người tốt giúp mình, nhưng cũng có nhiều người không tốt, người ta mua tranh nhưng rồi không trả tiền chẳng hạn. Mình cũng chấp nhận, mình coi đó là nợ đời và người ta phải trả nơi khác”, chú Quả nhớ lại.

Vào những năm 80-90 của thế kỷ trước, đó cũng là giai đoạn khó khăn chung của đất nước. Những người làm tranh làng Hồ còn phải đi làm đủ thứ nghề, thí dụ như làm mầu cho vỏ pháo, hay làm giấy phục vụ hàng mã. “Mình cũng không hiểu sao lại vượt qua được khó khăn như thế nữa. Cả ngày làm thuê có khi chỉ đong được mấy ca gạo, ấy thế mà vẫn sống sót, cố gắng giữ cho bằng được nghề”, vừa nói chú Quả vừa cười khà khà, nụ cười của người đã vượt qua đủ những cay đắng, thăng trầm và đạt được hạnh phúc như ngày nay.

“Thậm chí có nhiều người từng bảo mình, khi tách ra mình sẽ phải bỏ nghề nhưng mà với năng lực và với tính kiên trì, đến hôm nay mình đã có một đáp số trả lời cho mọi người rằng, mình vẫn sống được với nghề làm tranh và con cháu mình vẫn đang tiếp nối. Thì mình nghĩ đấy là sự thành công”.

Đến nay, chú Quả là một trong những gia đình hiếm hoi còn giữ lại nghề truyền thống ở làng. Chú cũng vẫn còn lưu được khoảng hơn 200 mẫu ván cổ, tiếp tục phục chế những mẫu quý, để tranh Đông Hồ tiếp tục được lan tỏa rộng rãi hơn.

Một điều còn nuối tiếc với chú Quả khi trở lại câu chuyện ngày xuân đó là chợ tranh xưa thật sự chỉ là ký ức. Chú Quả cho biết, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh từng có lần tái hiện chợ tranh, mời các gia đình nghệ nhân đến trưng bày tranh. “Nhưng thế hệ nay cũng chỉ biết thế, nghe vậy, chứ chợ diễn ra như thế nào thì không biết được. Vì để dựng lại như cũ, nhất là cái bối cảnh, không khí và hoạt động của người mua, người bán thì không dễ gì làm được”, chú Quả tâm sự.

Trong căn nhà hiện đại của chú Quả nằm bên bờ đê lộng gió, những tiếng đục gỗ, tiếng mài giấy… vẫn đều đặn vang lên ngày ngày. Có lẽ đó đã là sự mãn nguyện lớn nhất của lão nghệ nhân. “Mình mong muốn một người giữ nghề cho mình, thì mình đã có. Đó là thành công, mà với bản thân mình là điều toại nguyện rồi”.

Theo những ghi chép tư liệu, khoảng năm 1945, làng Đông Hồ có 17 dòng họ thì tất cả các dòng họ này đều làm tranh. Đến nay, chỉ còn gia đình Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Hữu Quả (con trai cố Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Hữu Sam) và dòng họ ông Nguyễn Đăng Chế là còn làm tranh. Cùng với thăng trầm của làng, cuộc đời một nghệ nhân như chú Quả cũng thật nhiều bước ngoặt: Từ thuở nhỏ học nghề, đến khi lập nghiệp, chứng kiến sự phát triển cực thịnh của làng nghề cho tới những ngày dần mai một, chú vẫn kiên trì giữ và truyền nghề cho con cháu. Có lẽ như câu ca dao: “Hỡi cô thắt lưng bao xanh/ Có về làng Mái với anh thì về/ Làng Mái có lịch có lề/ Có sông tắm mát có nghề làm tranh”, những người như chú Quả chỉ mong giữ được lề lối của một làng nghề trăm năm, dù biết rằng “dẫu xưa còn lại chút này” đi chăng nữa.

Theo Bài và ảnh: CAO PHƯỢNG DIỄM (NDO)

Có thể bạn quan tâm