Sau rồi cứ... im lặng dần. Trà Đak Đoa im tiếng tự hồi nào, Bàu Cạn và Biển Hồ từ một trong những ngọn cờ đầu của ngành nông nghiệp thời bao cấp cũng từ từ tụt hạng. Tôi nhớ trà Bàu Cạn nước xanh, trà Biển Hồ thì nước đỏ. Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Phạm Hạc hồi còn sống có chụp ảnh ông cụ râu dài rất đẹp đang uống trà làm nhãn cho thương hiệu trà Bàu Cạn.
Nguyên thủy, Gia Lai là vùng đất bazan tương đối màu mỡ, nền khí hậu trên độ cao trung bình hơn 600 m so với mực nước biển là điều kiện thuận lợi để cây chè sinh trưởng và phát triển. Tất cả các vùng trồng chè đều thích hợp với độ cao và phải lấy độ cao làm tiêu chí.
Gia Lai có thể phát triển loại hình du lịch đồn điền khi “sở hữu” 2 đồn điền chè có lịch sử hình thành hàng thế kỷ. Ảnh: Doãn Vinh |
Vì thế, từ những năm đầu thế kỷ XX, người Pháp đã mang cây chè đến Gia Lai. Theo sử sách, năm 1921, người Pháp lập ra đồn điền chè Biển Hồ (TP. Pleiku), sau đó là các đồn điền chè Bàu Cạn (với thương hiệu CATECKA), Ia Pết (SAPKO), Đak Đoa… Theo thống kê, Gia Lai hiện có 1.154 ha chè.
Không phải nơi nào cũng có thể trồng cây chè. Có loại chè trồng để làm trà khô, có loại để uống tươi. Nghệ An, Thanh Hóa là vùng chè uống tươi nổi tiếng, còn để làm trà khô thì cả nước chỉ có mấy vùng, phía Bắc có Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ và đặc biệt là Thái Nguyên. Cái câu “Trà Thái gái Tuyên” nói lên điều ấy. Tây Nguyên có Lâm Đồng, cụ thể là Bảo Lộc và Gia Lai.
Gần đây, trà Bàu Cạn nổi tiếng trở lại, không phải vì trà, mà vì những hàng cây muồng được trồng để chắn gió cho cây chè đồng loạt nở hoa và nó trở thành nơi để nhiều người, nhất là các bạn trẻ tới... check-in, chụp ảnh. Một cách làm du lịch tự phát. Trà Biển Hồ cũng được nhiều người biết tới trở lại nhờ... hàng thông trăm tuổi. Và thì ra, nó liên quan tương hỗ lẫn nhau.
Là khi Công ty Chè Biển Hồ được cổ phần hóa, ông chủ mới sau khi nghiên cứu, thấy hàng thông về nguyên tắc nó thuộc của Công ty, người Pháp trồng nối con đường từ vườn chè về nhà máy. Vả nữa, hồi ấy, một số cây thì chết, số thì bị người dân đẽo vỏ để bán cho dân chơi lan làm giá thể. Thế là tìm cách bảo vệ. Một mặt cho người mở quán cà phê ngay đấy để “lấy nó nuôi nó”, có cái xe bus và đường lên trời rất nhiều người tới chụp ảnh, mặt nữa cho đánh số cây và lắp camera bảo vệ, trồng dặm những cây thông đã chết. Nạn đẽo vỏ tạm hết, các cây đẹp lên nhờ được chăm sóc, con đường cũng trở nên đẹp hơn. Nhiều khách du lịch đặt tên con đường này là đường... Hàn Quốc.
Và trà Biển Hồ cũng... thơm lây. Quả là, những đồi chè nối tiếp nhau rất đẹp. Các bà, các chị mang theo cả vali quần áo, cả “buồng” thay đồ dã chiến, liên tục thay đổi trang phục để chụp ảnh. Nó thành một vòng khép kín: đường thông, vườn chè, cà phê, chùa Bửu Minh, cái bãi cỏ trước cửa chùa bạt ngàn hoa xuyến chi nữa. Chỉ tiếc, đây cũng là cách làm tự phát nên nó chỉ là nơi check-in của các đoàn khách kéo dài không quá 1 giờ đồng hồ, sau đó từ đây họ lên thẳng Kon Tum.
Tôi vừa có chuyến thăm doanh nghiệp này “lâu” hơn một chút, dẫn theo anh bạn là chủ doanh nghiệp du lịch ở Hà Nội, là vào cả nhà máy, lội bộ vào vườn sâu hơn, và ước ao, giá mà có thể đầu tư để nơi đây thành một điểm du lịch, khiến du khách phải nghỉ lại, phải tiêu tiền chứ không phải chỉ dừng để chụp ảnh, ai “mạnh tay” thì uống ly cà phê hoặc nước gì đấy, rồi lên xe đi tiếp.
Bây giờ, trà không chỉ trà nữa, mà nếu kết hợp giỏi, nếu thực sự lấy du lịch là mũi nhọn thì những vườn chè mênh mông kia, khéo kết hợp, giỏi setup... sẽ là những địa điểm thu hút khách du lịch, nó thành một trục tour du lịch: chè, núi lửa, Biển Hồ... rồi mới Kon Tum, Măng Đen.