(GLO)- Là tôi nhớ cái thời trai trẻ của mình, thời mà mỗi chuyến đi xuống làng là hăm hở, háo hức. Thời mà trong ba lô luôn có võng và đồ dùng đủ cho ít nhất một tuần lang thang. Thời ấy, chiêng là tự nguyện, tự giác, là nghi lễ, là thiêng liêng, là tài sản, là linh hồn...
Thường chúng tôi hay xuống làng vào mùa khô. Hoa dã quỳ vàng rực mọi ngả đường, mọi triền đồi vực suối Tây Nguyên. Nếu tinh ý lắng nghe, ta sẽ thấy có tiếng chiêng thầm thì trong gió. Lúc khoan lúc nhặt, khi tỏ khi mờ, tiếng chiêng len qua các ngọn núi, lách qua các tán rừng, tới các làng gần buôn xa, tới người đang ở trong nhà kẻ lui hui trong rẫy. Tiếng chiêng vẳng vào thinh không, đặc biệt ở những đêm trăng sáng, nó vang tới tận những đám mây ngũ sắc đang lửng lơ giữa bầu trời vằng vặc trăng và lồng lộng gió... Mùa khô là mùa người Tây Nguyên thường mở hội. Và tiếng chiêng là những âm thanh đầu tiên báo cho Yàng, cho thần Sông, thần Núi, thần Nước, thần Lửa, báo cho người gần khách xa biết rằng làng đang mở hội.
Biểu diễn cồng chiêng. Ảnh: Đ.T |
Trong những đêm mùa khô như thế, tiếng chiêng vang rất xa. Chúng tôi, những kẻ lãng du thích không khí lễ hội, chỉ cần nghe văng vẳng tiếng chiêng đâu đó là vùng dậy đoán hướng rồi nai nịt áo ấm và đi. Cái cảm giác đi tìm chiêng nó vô cùng lý thú. Gió ào ạt, tiếng chiêng lúc vẳng bên trái, lúc vang bên phải, lúc to lúc nhỏ, khi gần khi xa, lúc tưởng như đã đến nơi rồi, lúc lại nghe mơ hồ tận đâu đó tít phía thâm u cùng cốc. Chốc chốc lại phải đứng lại để định hướng. Và rồi chúng tôi cũng đến được nơi tiếng chiêng đang phát ra...
Ta có thể hình dung thế này: Từ bao đời nay, trong dòng thời gian dằng dặc có thể tính bằng hàng thiên niên kỷ, những âm thanh của các bộ cồng chiêng Jrai, Bahnar, Xê Đăng, Ê Đê... đã hòa chung với âm thanh của gió núi, cây rừng, suối nước, buôn làng. Người Tây Nguyên lấy các bộ chiêng làm thước đo tài sản. Các bộ cồng chiêng là tài sản quý báu nhất của một gia đình hay một tộc họ. Và âm thanh cồng chiêng là một nhân tố không thể thiếu, một bộ phận hữu cơ trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân địa phương. Cồng chiêng từ xa xưa có thể có chức năng thông tin. Có việc gì, chuyện vui chuyện buồn, thông báo giặc giã hay mùa màng bội thu... họ đều dùng tiếng chiêng. Vì thế họ ví tiếng chiêng dài qua 9 núi và có cả mái nhà sàn dài như tiếng chiêng. Trong trường ca Đam San thì: “Ơ chiêng, hãy vang lên đến 9 tầng trời, vọng sâu xuống 7 tầng đất, lan sang phía Tây chỗ người Lào buôn voi, vọng sang đằng Đông chỗ người Kinh buôn muối, rằng hôm nay nhà Đam San có việc lớn”. Cồng chiêng đón các em bé trong tiếng khóc chào đời. Cồng chiêng hòa nhịp cho các nam nữ thanh niên nhảy múa vui chơi trong các hội mùa, cồng chiêng rộn rã trong lễ đâm trâu mừng chiến thắng, thủ thỉ trong lời nhắn gửi với thần linh, bi ai tiễn đưa vong hồn về cõi A tâu...
Cồng chiêng là một loại nghệ thuật rất độc đáo. Ngoài cái hay của âm thanh còn có cái đẹp của người đánh chiêng, cả tâm hồn và hình thể. Hãy thử nhìn chàng trai đang chơi chiêng xem. Ngực trần nổi múi, dáng khom về trái, chân di chuyển rất nhịp nhàng và từng nắm tay nện vào núm chiêng vừa thiêng liêng vừa sảng khoái. Lúc này mặc kệ tất cả, chàng ta chỉ còn một mục tiêu duy nhất là thả hồn vào tiếng chiêng kia. Cũng chính là chàng ta đang lơ lửng đâu đó giữa trời cao đất rộng, giữa gió, giữa nắng, giữa trăng, giữa lửa và cả giữa rừng chân nõn nà muôn muốt của đội xoang; ở đó, ít nhất một đôi mắt, một con tim cũng đang hút lấy tiếng chiêng khắc khoải mà lộng lẫy kia? Bao giờ cũng thế, nghệ nhân cồng chiêng là người tài hoa nhất của buôn làng. Nhiều bộ chiêng quý phải đổi bằng ba bốn chục con trâu, thậm chí bằng voi. Cồng chiêng vì thế, còn là tài sản vật chất quý giá, người Tây Nguyên trữ chiêng như người Kinh trữ vàng trong nhà. Khi không chơi, nó được lau chùi rất cẩn thận rồi cho vào những cái rọ đan rất đẹp treo lên vách nhà.
Gọi chung là chiêng Tây Nguyên, nhưng thực ra thì từng dân tộc có cách đánh cách chơi riêng, có sự khác nhau rất rõ giữa các làn điệu cũng như cách diễn tấu. Chiêng Bahnar trầm hùng mà trữ tình như làn gió thổi qua rừng già. Nó bát ngát như những ta man (thảo nguyên) lâng lâng gió ở Kon Tum, Gia Lai, ở đó người Bahnar quây quần bên con sông mẹ Đak Bla và thả hồn mình vào những đêm chiêng trữ tình da diết, nghe thảnh thơi như đang đi dạo trên những con đường đầy nắng và lá rụng. Chiêng Jrai náo nức hội hè, nghe lâng lâng như vừa uống xong một thứ mật được pha, được chắt từ ánh mắt, từ hương rượu của các cô gái ngày vào hội, nghe men tình yêu bốc lên từ mỗi tiết tấu dập dồn kia, khiến chúng ta không thể đứng yên mà tự ta phải nhập vào vòng xoang lúc nào không biết. Chiêng Xê Đăng uy dũng, thượng võ nghe ngun ngút như núi cao dốc thẳm. Chiêng Mạ, Lạch, Mnông buồn thổn thức, như đêm là đà trên đỉnh Lang Biang, rủ rỉ tâm tình những câu chuyện dài không dứt, những câu chuyện buồn đến tê lòng về tình yêu của một chàng trai và một cô gái. Họ không lấy được nhau, khóc mãi, nước mắt chảy thành mây, quấn mãi trên đỉnh Lang Biang. Cũng như mái tóc nàng Ly xõa trắng biến thành thác Ia Ly huyền thoại. Chiêng Ê Đê thì lại mạnh mẽ sôi sục dứt khoát, như tính cách của chàng Đam San đi bắt Nữ thần Mặt trời ngày nào...
Vừa Festival Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên 2018 xong, hồi ức về chiêng một thời bỗng ùa về, diết da.
Văn Công Hùng