Kinh tế

Nông nghiệp

Có một thứ quý như vàng ở Việt Nam đang bị lẫn trong rác thải

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Mỗi năm, Việt Nam có trên 156 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp từ quá trình sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản. Nếu được đầu tư, chế biến số phụ phẩm này sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hữu ích, tăng thêm thu nhập cho nhà nông và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Phụ phẩm nông nghiệp cũng quý như... vàng

Theo ông Tống Xuân Chinh - Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NNPTNT), tổng phụ phẩm trong quá trình sản xuất nông, lâm, thủy sản và chăn nuôi của nước ta thải ra trong năm 2020 ở mức khoảng 156,8 triệu tấn.

Hai lĩnh vực có phụ phẩm lớn là trồng trọt (88,9 triệu tấn) và chăn nuôi (61,4 triệu tấn chất thải). Phụ phẩm trồng trọt thải ra chủ yếu là trong quá trình thu hoạch, như rơm, rạ từ sản xuất lúa, vỏ trấu, cám gạo khi chế biến gạo.

Riêng vùng ĐBSCL có 39,4 triệu tấn phụ phẩm (chiếm 26,2% và lớn nhất cả nước), trong đó 33,3 triệu tấn từ trồng trọt và 6,2 triệu tấn từ chăn nuôi. Tỉnh Kiên Giang có tổng lượng phụ phẩm nông nghiệp lớn nhất với 5,7 triệu tấn, tiếp đến là An Giang (5,2 triệu tấn).

 

 Tiến sĩ Phạm Hồng Đức Phước (Đồng Nai) sử dụng vỏ của trái cacao để làm phân hữu cơ. Ảnh: Minh Ngọc.
Tiến sĩ Phạm Hồng Đức Phước (Đồng Nai) sử dụng vỏ của trái ca cao để làm phân hữu cơ. Ảnh: Minh Ngọc.

"Theo đánh giá, tiềm năng phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam
có thể mang lại giá trị lên đến 4-5 tỷ USD/năm, tuy nhiên năm 2020 chỉ đạt 275 triệu USD".

Ông Tống Xuân Chinh -Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi

Lĩnh vực lâm nghiệp, mỗi năm Việt Nam sản xuất khoảng 30 triệu m3 gỗ tròn, thải ra 3,4 triệu tấn vỏ, cành, lá và quá trình chế biến tạo ra 2,4 triệu tấn mùn cưa. Các phụ phẩm này được dùng ép viên nén, cồn công nghiệp, phát điện sinh khối, làm đệm lót sinh học, phân hữu cơ…

Về thủy sản, năm 2020 Việt Nam có tổng sản lượng 8,4 triệu tấn, trong đó khai thác là 3,85 triệu tấn, nuôi trồng 4,56 triệu tấn và nhập thêm 1 triệu tấn nguyên liệu về chế biến. Riêng phụ phẩm trong chế biến thủy sản mỗi năm khoảng 1 triệu tấn. Hiện 90% được thu gom, đưa vào chế biến, làm ra các sản phẩm hữu ích.

Ông Chinh cho rằng, phụ phẩm nông nghiệp của Việt Nam rất lớn, nhưng việc sử dụng được đánh giá vẫn chưa hiệu quả. Mặt khác, việc sử dụng phụ phẩm vẫn còn khá đơn giản, chưa tạo được giá trị gia tăng cao. Đơn cử như với rơm, lúa chỉ được sử dụng làm thức ăn thô cho gia súc; làm chất độn chuồng cho vật nuôi; phủ luống/gốc cây trồng.

GS Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ đưa ra dẫn chứng, trong chế biến thủy sản xuất khẩu, con cá tra đang được sử dụng các phụ phẩm rất tốt, để chế biến chuyên sâu. Hầu hết các phụ phẩm từ mỡ, da, nội tạng… đều đã được chế biến thành các sản phẩm mang lại giá trị gia tăng cao.

"Phế phụ phẩm nông nghiệp là một nguồn tài nguyên lớn, cũng quý như vàng nhưng còn lãng phí quá nhiều. Nếu đẩy nhanh ứng dụng công nghệ cao trong chế biến thì sẽ tạo ra giá trị lớn cho ngành nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho nông dân" - GS Võ Tòng Xuân cho hay.

Không để doanh nghiệp nước ngoài "thâu tóm"


 

Vỏ trái ca cao có thể thành phân bón. Ảnh: Minh Ngọc.
Vỏ trái ca cao có thể thành phân bón. Ảnh: Minh Ngọc.
 

Năm 2020, vùng Đông Nam Bộ ước tính có trên 13,9 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp, chiếm 9,3% tổng lượng phụ phẩm nông nghiệp của cả nước.

Trong đó có 7,8 triệu tấn phụ phẩm từ trồng trọt và 6,1 triệu tấn từ phân vật nuôi. Riêng Đồng Nai có chăn nuôi phát triển nên khối lượng phân vật nuôi năm 2020 tương ứng là 2,3 triệu tấn; đứng thứ nhất trong vùng.

Để giải bài toán này, không lãng phí phụ phẩm nông nghiệp, đại diện Sở NNPTNT Đồng Nai kiến nghị đến Tổ công tác 970 của Bộ NNPTNT, nên xem phụ phẩm nông nghiệp là một nguồn tài nguyên có thể cải tạo để nâng cao nhận thức của người dân trong quá trình sản xuất: "Phụ phẩm nông nghiệp không phải là vấn đề mới, tuy nhiên để giải quyết vấn đề này là khâu rất là lớn, cần sự tham gia của nhiều ngành kinh tế, từ công nghệ sinh học, vi sinh, tự động hóa, cơ khí để chuyển phụ phẩm nông nghiệp trở thành nguyên liệu cho các ngành y tế, môi trường, thực phẩm, phân bón…".

Đại diện Sở NNPTNT Đồng Nai cho biết, hiện nay để làm phân hữu cơ, các doanh nghiệp trong nước phải nhập nguyên liệu phân gà, phân lợn từ châu Âu, Nhật Bản.

Thực tế cho thấy, phân gà nhập từ Nhật Bản rất rẻ, về đến cảng Cát Lái, giá thành từ 1.900 - 3.700 đồng/kg (tùy loại, dạng nung, bột, viên).

Trong khi nguyên liệu để sản xuất phân hữu cơ từ phụ phẩm chăn nuôi ở Bình Phước, Đồng Nai rất lớn. Nhưng việc sử dụng đang hạn chế, trong khi giá thành đầu tư sẽ cao hơn nhập khẩu.

Để chủ động sản xuất, không để doanh nghiệp nước ngoài chiếm lĩnh, đại diện Sở NNPTNT Đồng Nai đề xuất Nhà nước cần có cơ chế, chính sách phù hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp kịp thời, thực sự hiệu quả trong sản xuất phân hữu cơ.  



https://danviet.vn/co-mot-thu-quy-nhu-vang-o-viet-nam-dang-bi-lan-trong-rac-thai-20210913163354553.htm
 

Theo Minh Ngọc (Dân Việt)

Có thể bạn quan tâm