Bạn đọc

Luật sư Bùi Thanh Vũ tư vấn pháp luật trả lời bạn đọc T.Đ.C. (xã Ia Drăng, huyện Chư Prông)

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Bạn đọc T.Đ.C. (xã Ia Drăng, huyện Chư Prông) hỏi: Tôi có đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất có diện tích khoảng 1.000 m2. Cháu nội tôi là T.Đ.H. do nợ cờ bạc nên lén lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của tôi đi cầm cho bà N.T.M. với giá 200 triệu đồng.

Sau khi phát hiện sự việc, tôi đã nhiều lần yêu cầu bà M. trả lại giấy chứng nhận nhưng bà này yêu cầu tôi phải trả 200 triệu đồng cộng tiền lãi thì mới trả. Vậy tôi phải làm sao để đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình?

- Luật sư Bùi Thanh Vũ-Trưởng Văn phòng Luật sư Vinh Phú kiêm Trưởng Chi nhánh Gia Lai-trả lời:

Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.

Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của Tòa án nhân dân tối cao xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất không phải là giấy tờ có giá theo quy định của Bộ luật Dân sự thì đương sự không được khởi kiện yêu cầu đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Tuy nhiên, sau đó, khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có hiệu lực đã quy định:

“Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.

Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.

Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật Dân sự và Bộ luật này quy định”.

Điều 164 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Do đó, chiếu theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 164 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì ông có quyền khởi kiện bà M. để yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà M. trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của ông. Trong trường hợp này, Tòa án nhân dân sẽ thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Theo đó, tranh chấp về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Có thể bạn quan tâm