(GLO)- Đọc sách “Luật tục Jrai” của Viện Nghiên cứu Văn hóa Dân gian và Sở Văn hóa-Thông tin Gia Lai xuất bản năm 1999 cùng với bài nghiên cứu khá toàn diện của PGS.TS Phan Đăng Nhật, chúng tôi xin không bàn sâu về các khía cạnh như thuật ngữ, điều kiện xã hội, bối cảnh lịch sử sự ra đời luật tục của các dân tộc bản địa Tây Nguyên. Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu thêm về quan niệm và ứng xử văn hóa trong cộng đồng gắn với phong tục tập quán của cư dân ở các buôn làng xưa nay trong phạm vi ý nghĩa được hiểu là luật dân gian (folk law), lưu truyền trong cộng đồng các dân tộc “bắt nguồn từ phong tục và gắn liền với phong tục tập quán, không phải luật Nhà nước” (PGS.TS Phan Đăng Nhật).
Ảnh minh họa. |
Nhìn chung, ở các tộc người bản địa Tây Nguyên như: Jrai, Ê Đê, MNông, Bahnar, Xê Đăng… đều có luật tục do chính cộng đồng dân tộc ấy tự quy ước gắn liền với phong tục tập quán của mỗi dân tộc nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa cá thể với cá thể, cá thể với cộng đồng, duy trì cuộc sống hòa hợp trong các đơn vị buôn làng-tổ chức xã hội truyền thống của các dân tộc ít người ở Trường Sơn-Tây Nguyên. Những vị làm “tòa án” xét xử là những người có uy tín trong làng hoặc già làng, người cầm cân nảy mực am hiểu luật tục, phân minh trong mọi trường hợp. Chúng ta hãy nghe một lý lẽ trong luật tục Jrai khi đưa người phạm tội có chủ ý, phớt lờ các phong tục tập quán của buônlàng, không dám cầu xin thần linh tha thứ, không thể sống bình an giữa cộng đồng, ra xử trước công chúng: “…Nó không biết điều từ xa xưa truyền lại/Không nghe điều người ta nói/Khi nó chỉ cách nó 2 bước chân/Gạo của nó đã nhạt/Nước của nó đã vấy bùn/Nó đã phải luộc rau trong một cái lá/Nó không dám đánh thức thần Nước/Nó không dám cầu xin thần Núi/Nó không hé lời với chủ buôn/Không nghe lời ông nói/Nó như con gà chạy quanh cầu thang/Như con cá bơi quanh hòn đá/Chính vì thế mà xảy ra chuyện phải đưa nó ra xét xử”. Với cách nói vần dễ nhớ, cũng như cách điệp-đối trong câu và dùng các hình tượng khá gần gũi trong cuộc sống, chúng ta nhận thấy một hình thái mô típ thường gặp ở các loại thể dân gian truyền miệng của các dân tộc bản địa Tây Nguyên.
Ở đây, với luật tục, để chỉ tính cách bất kham, vấy bẩn của đối tượng cũng như cách so sánh trực diện bởi con vật, đồ vật xung quanh nhằm ám chỉ kẻ phạm tội đầy ương bướng… cần phải đưa ra cộng đồng xét xử, chúng ta không thấy những lời kết tội kiểu “đao to búa lớn” của vị quan tòa đầy quyền sinh sát mà chỉ là lời chỉ trích đối tượng rất “dân gian” như, gạo đã nhạt, nước đã vấy bùn… Để giữ gìn an ninh, trật tự của buôn làng và các phong tục, tập quán của dân tộc mình, hội đồng già làng biết dùng sức mạnh của dư luận để răn đe kẻ phạm tội, đồng thời cũng giáo dục các thành viên trong cộng đồng tự giác chấp hành các quy ước mà các thế hệ ông bà đã xây dựng nên. Hình phạt cao nhất đối với những thành viên phạm tội nặng, gây ảnh hưởng đến cộng đồng hay phỉ báng thần linh thường là bị đuổi khỏi buôn làng. Sự vô thừa nhận của cộng đồng với thành viên vi phạm đã đánh vào danh dự và tước đi mọi quyền lợi cả vật chất, tinh thần của người đó ở buôn làng. Và khi ấy, kẻ phạm tội thường sống lang thang như con thú hoang trong rừng bị mọi người xa lánh, kể cả những người thân. Đọc “Luật tục Jrai”, chúng ta thấy ở lời luận tội của kẻ phản lại lợi ích của dân làng thường bị chỉ trích như loài chồn, con diều hâu: “Nó đi từ sớm đến tối, từ chiều đến sáng/Gặp con trai, nó dò hỏi đường lên rẫy/Gặp ông già, nó dò hỏi đường vào buôn/Nó muốn biết lều người ta trên rẫy/Nhà người ta trong rừng/Nó như con diều hâu muốn bắt con rắn/Như con chồn muốn bắt con gà/Nó làm cho đất khô cằn/Làm cho nước ngầu đục/Mọi việc trở nên rắc rối/Bởi thế phải đưa nó ra xét xử”.
Để xử một người phụ nữ lẳng lơ, chửa hoang, người ta đã kể ra thói hư tật xấu, thích đua đòi, trưng diện: “Nó mải nghe chim gếch kể khan/Chim yuan nói chuyện/Nghe thỏ dạy dỗ/Nó kể về chuỗi vòng hạt mua từ Lào/Chiếc áo mua từ người tơbuan/Nó chỉ kể về bộ váy của nó/Thấy chiếc chăn, người ta biết tên người chủ của nó/Thấy con bò, người ta biết chuồng nó ở đâu/Lưỡi của cô ta nổi mụn/Mũi của cô ta nứt nẻ/Chân cô ta không còn bước đi nổi/Người ta phải xét xử cô gái ấy”.
Để duy trì trật tự trong cộng đồng, luật tục dường như không bỏ qua các hành vi vi phạm của mọi người, từ ăn cắp, đánh nhau đến say rượu, ngoại tình hay tranh chấp tài sản… đều phải được xét xử và trừng phạt. Tuy nhiên, hầu hết các cuộc xét xử ở buôn làng đều không nhằm loại trừ những kẻ vi phạm hay để lại những mâu thuẫn kéo dài của người thắng kẻ thua mà thường dẫn đến sự hòa giải, đem lại sự đoàn kết trong cộng đồng. Khi người vi phạm nhận ra lỗi của mình và chấp nhận hình thức phạt vạ bằng cuộc “liên hoan cộng hưởng”, mổ heo hay gà tạ lỗi với thần linh, già làng, uống rượu cùng bà con trong làng là xí xóa mọi tội lỗi như một cách “trắng án”, không còn bị nguyền rủa, khinh khi nữa… Đó được xem là nét văn hóa đẹp mà một số buôn làng truyền thống ở Tây Nguyên đến nay còn lưu giữ. Tuy vậy, ở một số vụ việc phức tạp mà chứng cứ không rõ ràng, một số tộc người nơi đây vẫn còn sử dụng những hình thức phân định có tội hay không có tội mang tính chất mê tín, như lặn nước, đổ chì nung chảy vào tay, bóp dọc trứng gà, uống gạc nai nấu sôi… Hiện nay, những tập tục lạc hậu này hầu như không còn xuất hiện ở các buôn làng, nhưng không phải không còn rơi rớt ở đâu đó khi mà chính quyền không can thiệp kịp thời.
Bùi Quang Vinh