(GLO)- Khoảng tháng 11 Âm lịch trở đi, mưa bão đã dứt, mùa vụ đã thu hoạch xong, thóc lúa đã được cất đặt tươm tất, rạ rơm cũng được vun đống gọn gàng. Gió đông bắt đầu hiu hiu luồn lách trên bãi bờ, đồng ruộng chỉ còn trơ gốc rạ, tiết trời làm cho nước ở các kênh rạch đầm hồ cạn dần, đó cũng là lúc người ta bắt đầu mùa tát đồng.
Mùa tát đồng không phải là một mùa vụ giống như mùa lúa, mùa khoai. Đó là khoảng thời gian chỉ kéo dài chừng một tháng sau khi thu hoạch lúa, nông dân dựa vào thời tiết tranh thủ thu hoạch cá tôm ở những kênh mương bao quanh đồng ruộng, nhưng không khí cũng đông vui nhộn nhịp chẳng kém so với những ngày thu hoạch lúa trước đó.
Bắt đầu từ những vũng, những đoạn mương nhỏ rồi đến những ao hồ, những đầm rộng lớn hơn. Chỗ diện tích nhỏ thì vài ba người, ở những chỗ đầm hồ rộng lớn có khi tập trung hàng chục, thậm chí hàng trăm người. Mỗi người mỗi việc, việc đầu tiên là tát cạn nước ở những nơi cần bắt cá tôm và việc cuối cùng tất nhiên là thu sản phẩm. Người lớn đánh bắt, phân loại và vận chuyển tôm cá lên bờ, đám trẻ con đeo giỏ lò dò phía sau nhặt nhạnh những gì còn sót lại.
Vào những ngày ấy, bữa cơm thường có thêm đôi ba món rất ngon. Mẹ tôi chọn những con trê, con lóc to nhất làm món cá kho. Cá làm sạch, cắt khúc, bỏ trong niêu đất rồi ướp gia vị. Gia vị gồm rất nhiều thứ, nhưng không thể thiếu mấy lát riềng tươi, vài quả ớt hiểm và chút hạt tiêu Bắc (mắc khén).
Cá ướp gia vị để thật thấm, rồi nấu sôi liu riu trên lửa nhỏ cho đượm, khi nước còn săm sắp trên mặt cá thì đem vùi niêu cá vào đống trấu cháy ngun ngún, thường thì vùi như vậy từ đầu tối, sáng hôm sau mới lấy niêu cá ra. Khi ấy trấu đã cháy hết, những miếng cá chín chậm khô sắt lại, thấm gia vị thật đậm đà, những chiếc xương cũng mục nhừ có thể ăn luôn được.
Bát cơm gạo mới còn đượm hương rạ rơm nóng hổi xới ra, miếng cơm ăn cùng với miếng cá cay nồng vị của ớt, của tiêu, của riềng trong tiết trời rơm rớm gió đông, vừa ăn vừa hít hà, xuýt xoa mà như thấy cả vị mặn mòi của những giọt mồ hôi thấm đẫm trên từng thớ đất luống cày, rồi luênh loang, bồng bềnh trên đồng ruộng.
Minh họa: Huyền Trang |
Dọc dài đất nước, nền văn hóa nông nghiệp tạo ra những nét tương đồng trong nếp sinh hoạt, lao động, ăn uống của con người. Có khác chăng chỉ là cách chế biến những món ăn ở mỗi vùng miền theo những cách riêng để tạo ra nét đặc trưng khu biệt.
Cũng trong tiết trời bắt đầu hanh hao bởi gió miền cao nguyên, ở những đoạn suối, quanh những đám ruộng trũng bắt đầu cạn nước, tôi thấy người dân cũng tập trung để bắt tôm, bắt cá. Đôi khi, tôi ghé đến, đứng xem và chờ mua cho bằng được một mớ cá thật tươi vừa mới vớt lên khỏi mặt nước, rồi đem về lụi cụi nấu lại mấy món khi xưa mẹ nấu. Tôi bỏ ra rất nhiều thời gian để nấu lại một món ăn, không hẳn vì nhu cầu ăn uống thường ngày, bởi giờ có lẽ, phần nhiều đã bão hòa dưỡng chất.
Thật khó tìm một lý do thật thỏa đáng cho những đắm đuối xa xưa cứ lẩn quất mãi ở hiện tại và có lẽ trong cả tương lai nữa. Nhưng cần gì phải có lý do rõ ràng, vì những điều chúng ta luôn đau đáu nhớ thương, chắc hẳn phải luôn là những điều mãi đẹp đẽ cất giữ ở trong lòng.
Tôi vẫn có thói quen lang thang một mình vào những lúc nhàn rỗi, nhiều khi như vô định. Phố nhỏ của tôi, làng nằm trong phố, ruộng đồng cũng ôm ấp giữa lòng phố. Nên đôi khi, tôi cứ đi vô định nhưng lại gặp những người, những việc khiến mình như được trở lại xa xưa, trở lại với hương bùn non quyện trong hương ruộng đồng thanh khiết.
Tôi biết rằng, ở một góc riêng mình, tôi luôn cất giữ những tháng năm thương mến lắm, thương mến như buổi chiều nay, tôi đã trông thấy những gương mặt lấm láp bùn đất mùa tát đồng. Họ vỡ òa vui sướng, reo hò khi bắt được cá to.
ĐÀO AN DUYÊN