Văn hóa

Văn học - Nghệ thuật

Ngày xưa như khói...

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Canh khuya, tôi và đứa em chở nhau trên chiếc xe cà tàng về phố. Đường đầy sương. Hai bên đường, những vườn cà phê trĩu quả cứ vun vút lướt qua theo từng vòng bánh xe. Chúng tôi đi ngang qua những vườn cao su thấp thoáng ánh đèn của người đi cạo mủ. Đường vắng, chỉ còn chúng tôi và ánh đèn xe loang loáng trên những khúc cua lô nhô cát sỏi. Sương nặng hạt rơi đầy trên mũ rồi chảy xuống ướt đầm manh áo, dính vào da lành lạnh. Gió ù ù bên tai. Đêm nhấp nhô theo vòng xe, nhấp nhô theo cánh cửa của ban mai dần hé.

Chúng tôi dừng chân ở quán nhỏ ven đường về xóm trọ. Bà chủ đang canh lửa thấy khách quen, miệng cười đon đả. Bà mang ấm chè xanh đặt lên bàn: “Chè mới hãm đấy”. Chúng tôi rót hai ly đầy, mùi chè xanh xộc vào cánh mũi. Tôi đưa ly lên miệng thổi vài hơi rồi nhấp một ngụm nghe được vị thơm dịu, thanh thuần, sảng khoái thấm dần nơi đầu lưỡi. Mùi hương khiến tôi nhớ đến ấm chè của ba mỗi sớm...

 Minh họa: Huyền Trang
Minh họa: Huyền Trang


Nhớ những ngày còn khỏe, ba thường dậy sớm để nhóm bếp và nấu nước hãm chè. Tiếng nạng gỗ, tiếng dép bị kéo lê trên nền xi măng lẹt xẹt, tiếng củi rơi khiến tôi tỉnh giấc. Ba đặt cây nạng gỗ cho phần tay cầm chạm xuống đất rồi ngồi lên, một tay dùng nạng kéo những cây củi lại gần rồi cho vào bếp. Lửa rần rật cháy, ba bắc nồi nước lên rồi cầm giỏ ra vườn hái chè. Ba tôi nghiện nước chè xanh. Mẹ đã cuốc đất, xin hạt về trồng một khoảng nho nhỏ độ 30 cây để ba tiện uống. Đất quê tôi cằn cỗi, sỏi đá nên để có được khoảnh vườn chè ấy là cả một sự kỳ công, khó nhọc của mẹ. Ba lấy ghế nhựa ngồi hái cẩn thận. Ba chọn những cây chè được nắng hái trước. Ba bảo: “Nước sẽ xanh, đượm hương và ngon hơn”.

Ngày còn khỏe, ba pha ấm nước chè xanh bảo tôi đặt trên bàn gỗ kê sẵn ngoài hiên. Tầm 7 giờ, ông Trong, thầy Minh (thầy giáo của ba) lần lượt đến. Sau những hỏi thăm sức khỏe, ăn uống là những câu chuyện về làng trên xóm dưới, về rộng dài đất nước và cả những nước ở bên kia bán cầu. Câu chuyện cứ lan man đến những năm tháng đội mũ rơm đi học, đào đất đắp kênh thủy lợi đến những trận chiến trong lằn ranh còn mất. Vòng tròn câu chuyện rộng dần khi có các cụ hưu trí ghé lại và kể về những ngày xưa đồng ruộng, những chạy lũ canh khuya, những đói no rưng rưng trên vành mắt... Ngày ông Trong mất, ba tôi buồn lắm. Ba nhìn chiếc ghế ông hay ngồi, rót một ly nước chè để sẵn rồi lặng im trông vời ra những đóa mẫu đơn trước sân.

Rồi những cuộc chuyện trò dần thưa vắng theo thời gian. Ba ngày một yếu. Mỗi bận về quê, ba bảo tôi dìu ra chiếc bàn gỗ ngoài hiên để ngồi hóng gió. Quãng đường dăm mét ba bước đi đầy khó nhọc như khoảng lặng dăm năm thời cuộc. Ba nhấm nháp ly nước chè tôi pha rồi dõi đôi mắt mờ đục ra sân.

Lâu rồi, tôi chưa về thăm ba. Lâu rồi, ba chưa ra ngồi nơi chiếc bàn gỗ quen thuộc. Tôi bất giác giật mình bởi nhận ra những cây chè chưa ai cưa gốc để ra chồi mới. Hương nước chè thơm xộc lên cánh mũi, những sợi khói bay theo. Sợi khói như trách móc, như giận hờn, lại như nhớ thương mà quẩn quanh trước mặt. Bất giác mắt tôi nhòa lệ. Bất giác, tôi nhớ về những ngày ba còn khỏe, ngày của những ấm chè xanh neo sợi khói tỏa hương.

 

ĐÔNG HÒA 

 

Có thể bạn quan tâm