Báo xuân 2025

Dấu ấn di sản địa-văn hóa Tây Nguyên trong lòng đất

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Di sản địa-văn hóa Tây Nguyên là tài sản vô giá của quốc gia, góp phần tạo nên sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Việc bảo tồn, phát huy giá trị nguồn tài nguyên di sản này đã trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách không những cho thế hệ hôm nay mà cả mai sau.

Diên cách một vùng đất

Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội và an ninh-quốc phòng của cả nước. Tây Nguyên hiện lên trên bản đồ Việt Nam với một diên cách rất riêng, độc đáo.

Nếu chúng ta đi dọc từ Bắc vào Nam sẽ bắt gặp ở đây một hệ sinh thái: núi-cao nguyên-núi, bắt đầu từ núi Ngọc Linh (Kon Tum) cao 2.598 m rồi núi Lang Biang (Lâm Đồng) cao 2.167 m. Nằm giữa 2 khối núi ấy là các cao nguyên kế tiếp nhau: Kon Tum (cao 500 m), Pleiku (800 m), M’Đrắk (500 m), Buôn Ma Thuột (500 m), Mơ Nông (800-1.000 m), Lâm Viên (1.500 m), Bảo Lộc và Di Linh (900-1.000 m).

Còn từ Tây sang Đông, chúng ta sẽ bắt gặp một hệ sinh thái phổ quát khác: cao nguyên-núi đồi-đồng bằng-biển đảo. Hai chiều ngang-dọc ấy đã dệt nên diên cách một Tây Nguyên độc đáo, nổi bật mà không nơi nào có được.

Núi lửa Chư Đang Ya. Ảnh: HUYỀN TỶ

Tây Nguyên-nguồn di sản thiên nhiên độc đáo

Các nhà địa chất giúp chúng ta khám phá nguồn di sản địa chất độc đáo trong lòng đất Tây Nguyên. Nơi đây nằm gọn trong địa khối Kon Tum, một khu vực có hoạt động magma kiến tạo, có tuổi địa chất siêu cổ, bắt đầu từ tệp đá mang tên kỷ Archei có tuổi 2.500 triệu năm cách ngày nay.

Tiếp đó là các hệ tầng nối tiếp nhau, có tuổi Paleo-Protenozoi, Cambri-Silua, Paleozoi, Mesozoicho đến tận Neogen, cách nay khoảng 23 triệu năm. Lúc ấy, nơi đây đã xảy ra các hoạt động đứt gãy, điển hình là đứt gãy sâu sông Ba. Dọc sông Ba bắt đầu hình thành các bậc thềm Aluvi-Proluvi tuổi Pleistocene thượng, rồi Holocene.

Di sản địa hình, địa mạo đa dạng độc đáo của Tây Nguyên hôm nay về cơ bản được hình thành từ các hoạt động phun trào núi lửa trẻ trên các cao nguyên, diễn ra từ giai đoạn địa chất Kainozoi, chủ yếu từ Neogen trở lại đây. Những dấu tích hoạt động phun trào núi lửa đã để lại cho Tây Nguyên hàng trăm miệng núi lửa, trong đó có một số miệng lõm sâu xuống đất, được gọi là núi lửa âm, tiêu biểu như Biển Hồ hoặc núi lửa dương như Hàm Rồng, Chư Đang Ya.

Các hoạt động núi lửa đã để lại cho Tây Nguyên những danh thắng thiên nhiên độc đáo, đó là các thác nước kỳ vĩ, độc đáo, có nơi được xếp hạng cấp quốc gia, quốc tế như: Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh... Không chỉ thế, hoạt động của núi lửa ở Tây Nguyên còn tạo ra một tầng đất đỏ bazan, một tài nguyên đất vô cùng quý giá cho sự sinh tồn của những cánh rừng đại ngàn, đa dạng sinh học, nhất là các loài cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao như hồ tiêu, cao su, cà phê.

Vùng đất ấy có sức hút mãnh liệt các cộng đồng người về đây hội tụ, làm nên không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể nhân loại, những áng sử thi bất hủ được truyền lại cho cháu con, cùng các lễ hội dân gian đậm nét Tây Nguyên.

Những dấu ấn di sản văn hóa nổi bật

Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà khảo cổ học đã khám phá trong lòng đất Tây Nguyên dấu ấn các nền văn hóa, văn minh cổ xưa, độc đáo, nổi bật riêng có. Sớm nhất, từ sơ kỳ Cánh tân, gần 1 triệu năm trước, con người bắt đầu chiếm lĩnh vùng thượng lưu sông Ba, trên đất An Khê, Gia Lai. Ở đó, con người đã làm nên một kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ có niên đại Kalium-Argon (40 K/40 Ar) là 806 ngàn năm cách ngày nay.

Người xưa đã chế tác và sử dụng rìu tay, công cụ mũi nhọn tam diện, cái nạo, con dao trong hoạt động săn bắt-hái lượm. Chủ nhân các di sản cổ xưa ấy là những người đứng thẳng (Homo erectus), tổ tiên của người hiện đại (Homo sapiens) và là mốc mở đầu cho lịch sử Việt Nam và nhân loại.

Tiếp sau kỹ nghệ An Khê là dấu tích văn hóa cư dân hậu kỳ Đá cũ có tuổi từ 60.000 đến 11.000 năm cách ngày nay. Di sản văn hóa của họ đã tìm thấy ở Sa Thầy (Kon Tum), Kbang, Đak Pơ, Phú Thiện (Gia Lai), Xuân Phú (Đắk Lắk), Krông Nô (Đắk Nông) và Núi Voi (Lâm Đồng). Đó là những công cụ chế tác từ đá cuội ghè đẽo thô sơ, tạo ra những mũi nhọn, công cụ rìa lưỡi ngang, rìa lưỡi dọc, ghè hết một mặt, minh chứng cho sự tiếp nối văn hóa sau An Khê.

Bước sang thời đại Đá mới, các cộng đồng cư dân từ 7.000 đến 4.000 năm phân bố rộng khắp Tây Nguyên, dấu ấn văn hóa còn bảo lưu ở vùng núi thấp Sa Thầy (Kon Tum), vùng núi cao Chư Prông (Gia Lai), vùng trũng Buôn Kiều (Đắk Lắk) và hang động núi lửa Krông Nô (Đắk Nông).

Dấu tích văn hóa còn nở rộ hơn nữa từ 4.000 đến 3.000 năm cách ngày nay với các trung tâm văn hóa tiền sử: văn hóa Lung Leng (Kon Tum), văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), văn hóa Buôn Triết (Đắk Lắk và Đắk Nông).

Vào thời này, các công xưởng chế tác công cụ đá mang tính chuyên hóa xuất hiện, con người sống định cư gắn với nền nông nghiệp dùng cuốc điển hình ở Tây Nguyên.

Từ 3.000 đến 2.000 năm cách ngày nay, Tây Nguyên bước vào xã hội văn minh với sự xuất hiện các trung tâm luyện kim đúc đồng, chế tạo công cụ bằng đồng, rồi bằng sắt, tiêu biểu ở vùng thượng lưu sông Sê San (Kon Tum), vùng thượng lưu sông Ba (Gia Lai) và thượng lưu sông Đồng Nai (Lâm Đồng).

Tại các trung tâm này đã tìm thấy rìu đồng và khuôn đúc rìu đồng mang sắc thái Tây Nguyên, đồng thời có yếu tố giao lưu rộng mở với cư dân các nền văn minh lớn của đất nước như văn hóa Đông Sơn (Bắc Việt Nam) hoặc văn hóa đồng thau miền Đông Nam Bộ. Dấu ấn rõ nét là sự hiện diện của hàng chục trống đồng Đông Sơn tìm thấy ở hầu khắp các tỉnh Tây Nguyên.

Ngoài dấu ấn văn hóa đền tháp, bia ký, tượng thờ Champa, sau năm 1471, văn hóa Đại Việt dần có mặt ở vùng đất phương Nam, rồi Tây Nguyên. Đến cuối thế kỷ XVIII, Tam kiệt Tây Sơn đã tập hợp lực lượng Kinh-Thượng xây dựng căn cứ địa vững chắc ở An Khê. Từ đây, nghĩa quân tiến xuống đồng bằng Nam Bộ tiêu diệt 50 vạn quân Xiêm (1785), vươn ra miền Trung giải phóng Phú Xuân (Huế), tiến quân ra Bắc, đại phá quân Thanh (1789), giải phóng Thăng Long, thống nhất non sông thu về một mối.

Những trang sử hào hùng về vùng đất và con người Tây Nguyên trong lịch sử đã được thế hệ người Tây Nguyên hôm nay bảo tồn, phát huy và viết tiếp trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế-xã hội.

Đánh thức di sản địa-văn hóa Tây Nguyên

Di sản địa-văn hóa Tây Nguyên không những là tài sản vô giá của quốc gia, dân tộc, góp phần tạo nên sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam mà còn là nhân tố, nguồn lực cho sự phát triển bền vững. Tài sản này không tái sinh, một số nơi đang ngủ yên trong lòng đất và dễ bị xâm phạm bởi các tác động bên ngoài trong bối cảnh biến đổi khí hậu và môi trường bị xâm hại. Do đó, việc bảo tồn, phát huy giá trị nguồn tài nguyên di sản địa-văn hóa Tây Nguyên đã trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách không những cho thế hệ hôm nay mà cả mai sau.

Trong các văn kiện của Đảng về phát triển Tây Nguyên (Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18-1-2002 của Bộ Chính trị khóa IX; Kết luận số 12-KL/TW ngày 24-10-2011 của Bộ Chính trị khóa XI, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6-10-2022 của Bộ Chính trị khóa XIII...) và mới đây, ngày 4-5-2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 377/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đều đề cập vấn đề ưu tiên giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản, nhất là các di sản văn hóa đã được UNESCO vinh danh.

Đây vừa là cơ sở, vừa là động lực hết sức quan trọng để tháo gỡ khó khăn, khắc phục hạn chế, đánh thức tiềm năng di sản địa-văn hóa từ lòng đất Tây Nguyên.

Có thể bạn quan tâm