Nhộn nhịp “trên bến dưới thuyền”
Chiều muộn, bến đò làng Nú vẫn rộn rã tiếng nói cười của người dân trở về nhà sau một ngày lao động vất vả phía bên kia sông. Tiếng máy nổ của các loại phương tiện rền vang một khúc sông. Ngắm nhìn khung cảnh ấy từ ngôi nhà gỗ nhỏ dưới tán vườn điều ven sông Pô Cô, ông Rơ Lan Lá mỉm cười hạnh phúc. Đây là ngôi nhà duy nhất ở bến đò. Ông Lá và 2 người con rể đều làm nghề lái thuyền máy ở bến sông này nên ông làm nhà tạm để có chỗ nghỉ ngơi khi thưa vắng khách.

Có lẽ quá quen với những người khách lạ hỏi chuyện về bến đò, ông Lá kể: Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân A Sanh là người con của làng Nú. Trong kháng chiến chống Mỹ, A Sanh đã mưu trí, dũng cảm dùng thuyền độc mộc chở bộ đội, lương thực, vũ khí, đạn dược qua sông an toàn.
Dân làng mình trước đây sống ven sông. Năm 2003, Nhà nước vận động di dời lên làng mới để nhường chỗ thi công Thủy điện Sê San 3A nên bến đò cũng thưa vắng người. Vài năm trở lại đây, Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá giúp các phương tiện lưu thông thuận tiện, bến đò cũng nhộp nhịp trở lại.
Chỉ tay về phía bên kia sông Pô Cô, ông Lá cho biết: Bên đó là xã Ia Tơi, huyện Ia H’Drai, tỉnh Kon Tum. Nhiều hộ dân làng Nú có đất sản xuất bên sông, một số thì làm công nhân nên hàng ngày vẫn chèo thuyền qua sông.
“Thuyền độc mộc nhỏ, chỉ chở được ít người, ít nông sản nên bà con dần thay bằng thuyền máy. Nhu cầu tăng cao, thuyền máy nhỏ không chở được ô tô nên một số hộ chuyển sang thuyền máy hay phà có sức chứa lớn hơn. Hai tháng trước, mình mua lại 1 chiếc phà có giá gần 200 triệu đồng thay cho chiếc thuyền mua từ năm 2013. Phà này có thể chở được xe tải dưới 20 tấn qua sông”-ông Lá cho biết.
Ngoài 3 cha con ông Lá còn có 9 người dân làng Nú mưu sinh bằng nghề lái thuyền máy nơi bến sông. Với tinh thần đoàn kết vì lợi ích chung, ông Lá đã chủ động chặt bỏ gần 10 cây điều sát mép sông và hạ thấp độ cao của vườn để thuận tiện cho thuyền cập bến, dễ dàng cho người và phương tiện lên xuống.
Theo ông Lá, mức tiền chở mỗi lượt khách qua sông kèm theo xe máy là 20 ngàn đồng; ô tô con là 50 ngàn đồng và xe tải chở vật liệu, nông sản là 200 ngàn đồng/lượt. Riêng người dân trong làng qua sông không kèm phương tiện thì hoàn toàn miễn phí.
“6 giờ hàng ngày, các thuyền bắt đầu hoạt động, đến 19 giờ thì nghỉ. Tuy nhiên, ở bến đò, chúng tôi có để lại số điện thoại, khách có nhu cầu thì liên lạc để được hỗ trợ kịp thời”-ông Lá cho biết thêm.

Gắn bó với bến đò từ năm 2013, anh Puih Tưng cho hay: Nhu cầu đi lại bằng đường sông của người dân tăng cao trong 2 năm trở lại đây. Một số hộ dân trong làng làm công nhân khai thác mủ cao su bên xã Ia Tơi, một số hộ có đất sản xuất bên kia sông nên hàng ngày đều qua lại bến đò. Đời sống cải thiện, nhu cầu mua sắm, xây dựng của người dân sinh sống bên kia sông tăng cao nên hàng ngày có thêm nhiều xe tải chở vật liệu xây dựng qua sông.
“Chúng tôi chia 6 người thành 1 tổ và luân phiên lái thuyền theo ngày. Toàn bộ số tiền thu được trong ngày sẽ chia đều cho 6 thành viên. Nhờ bến đò này, nhiều hộ dân trong làng có thêm nguồn thu nhập. Hôm nay, khách đông, xe ô tô nhiều nên mỗi người kiếm được 500-600 ngàn đồng”-anh Tưng chia sẻ.
Thường xuyên lái xe tải chở vật liệu xây dựng qua bên kia sông, anh Puih Glui (xã Ia Krái, huyện Ia Grai) cho hay: “Mỗi chuyến cả đi lẫn về, tôi trả 400 ngàn đồng tiền phí. Bù lại, đoạn đường vận chuyển được rút ngắn, tôi tiết kiệm được tiền dầu, giảm thời gian lưu thông trên đường. Để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện, tôi chấp hành đúng quy định của chủ phà, mỗi chuyến xe không vượt quá 20 tấn”.
Thơm mùi no ấm
Đến làng Nú vào mùa này, chúng tôi như bị mê hoặc bởi hương thơm dịu ngọt từ những vườn điều chín mọng tiếp nối nhau từ đầu làng đến tận bến đò. Ông Rơ Lan Hôh-Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng thôn Nú-tự hào khoe: Dân làng Nú luôn đoàn kết và tích cực lao động sản xuất. Bà con học hỏi lẫn nhau để cùng vươn lên.
Những khoảnh đất trống trong vườn, người dân cũng tận dụng để trồng điều. Hiện người dân trong làng có hơn 200 ha điều và gần 30 ha cao su tiểu điền. Điều là cây trồng chủ lực mang lại nguồn thu nhập chính nên bà con chú trọng việc làm cỏ, bón phân, tỉa cành sau thu hoạch.
Ngoài chăm sóc diện tích cây trồng của gia đình, nhiều người còn làm công nhân, làm thuê để cải thiện thu nhập. Làng có 115 hộ và chỉ còn 2 hộ nghèo. Làng không còn nhà tạm, nhà dột nát. Nhiều hộ đã xây dựng nhà cao tầng, mua ô tô.
Đơn cử như hộ anh Puih Tưng, ngoài thu nhập từ việc lái thuyền, gia đình anh còn có nguồn thu từ 1,5 ha điều và 2 con heo nái. “Năm nay thời tiết thất thường, thời điểm điều trổ bông thì có sương muối nên ảnh hưởng đến năng suất, dự kiến 1 ha chỉ thu được 8 tạ. Trong 3 năm qua, mình đầu tư làm chuồng nuôi 2 con heo nái. Mỗi năm, 1 con heo nái sinh sản 2 lứa, mỗi lứa 10-12 con. Mình bán heo giống là chủ yếu. Cách đây vài ngày, mình bán heo giống với giá 600 ngàn đồng/con”-anh Tưng thông tin.

Gia đình anh Rơ Lan Xíu-Trưởng ban Công tác Mặt trận làng Nú cũng có 4 ha điều. Anh Xíu bộc bạch: “Khi điều rụng hạt nếu không nhặt nhanh sẽ bị khô, nhẹ ký, bán không được giá. Vì vậy, với 2 vườn điều ở xa làng, mình bán non khi vừa trổ bông. 2 vườn điều gần nhà rộng khoảng 2 ha, mình mới dọn sạch cỏ và lá khô dưới gốc để chuẩn bị thu hoạch.
Nếu chăm sóc tốt và thời tiết thuận lợi, 1 ha điều cho thu hoạch 1,8-2 tấn hạt. Tuy nhiên, năm nay, thời tiết bất lợi, điều mất mùa, năng suất chỉ đạt 8-9 tạ hạt/ha. Bù lại, hạt điều tươi đang có giá 36 ngàn đồng/kg, cao hơn 14-16 ngàn đồng/kg so với năm trước”.

Không chỉ nỗ lực vươn lên trong sản xuất, người dân làng Nú còn đoàn kết xây dựng nông thôn mới. Nói về quá trình vận động dân làng hiến đất mở rộng đường xuống Khu di tích Bến đò A Sanh, ông Rơ Châm Hmơnh-người uy tín của làng-kể lại: “Mình bảo phải có đường đi thì mới tốt đẹp được. Nhà nước làm đường cho dân đi lại thuân lợi thì mình phải mừng. Nếu mình không hiến đất thì sao có đường. Nói trong cuộc họp bà con chưa thông, mình đến từng nhà để nói. Ngày nay chưa xong thì ngày mai nói tiếp”.
Trong 1 tuần, các hộ dân có đất sản xuất hai bên đường dẫn xuống khu di tích bến đò đều tự nguyện chặt cây điều, hiến 4.500 m2 đất. Bản thân ông Hmơnh cũng tiên phong chặt bỏ hơn 10 cây điều, hiến 240 m2 đất. Nhờ đó, tuyến đường mòn dài 900 m từ làng dẫn xuống Khu di tích Bến đò A Sanh đã được bê tông hóa rộng rãi, khang trang, sạch đẹp.
Bà Nguyễn Mai Lương-Chủ tịch UBND xã Ia Khai: Với sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, làng Nú đã vươn lên trở thành điểm sáng trong xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư. Nhiều năm liên tục, làng Nú đạt danh hiệu làng văn hóa. Năm 2023, làng được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 2024, làng Nú được Chủ tịch UBND tỉnh tặng bằng khen vì có thành tích xuất sắc trong 3 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Phát huy truyền thống quê hương anh hùng, ngôi làng với 100% hộ dân tộc Jrai vẫn luôn quan tâm giữ gìn các nét truyền thống văn hóa. Làng có 1 đội cồng chiêng thường xuyên tham gia biểu diễn ở các lễ hội, nhất là hội đua thuyền độc mộc trên sông Pô Cô. Nhiều người già trong làng còn gìn giữ nghề đan lát truyền thống.
Cầm trên tay chiếc gùi với họa tiết hoa văn đẹp mắt, ông Hmơnh giới thiệu: “Mình đan sẵn để đây, ai mua thì bán. Gùi không hoa văn thì bán 300 ngàn đồng, gùi có hoa văn như thế này thì 700 ngàn đồng. Gùi có hoa văn chủ yếu là bán cho người trẻ.
Trước đây chưa có màu sơn, mình phải vào rừng tìm nguyên liệu về tạo màu, rồi làm nóng sáp ong quét lên từng sợi lạt để khô. Làm như vậy để khi gùi gặp nước mưa cũng không bị trôi màu họa tiết. Giờ thì đỡ vất vả hơn vì có đủ các loại sơn công nghiệp. Làng mình ngày càng no ấm rồi, giờ chỉ mong con cháu mình giữ gìn các giá trị truyền thống bao đời cha ông để lại”-ông Hmơnh bày tỏ.