Chính trị

Quốc phòng - An ninh

Trong nước

Xây dựng nền kinh tế tự cường

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các nhà lãnh đạo các nước ASEAN và Hàn Quốc dự Hội nghị Cấp cao kỷ niệm 30 năm quan hệ đối ngoại ASEAN - Hàn Quốc. Ảnh: T.L
Bài viết “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững” của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được truyền thông cả nước đăng tải dịp cuối năm 2019 đã được các chuyên gia, các nhà kinh tế đánh giá rất cao. Nói như GS Vũ Minh Giang: “Khi đọc bài viết của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, tôi thấy đây là một cách tiếp cận toàn diện, nói về một vấn đề tương đối cốt lõi. Đó là làm sao huy động được tất cả mọi nguồn lực cho sự phát triển”.
Huy động được tất cả mọi nguồn lực cho sự phát triển
Năm 2019 đánh dấu một năm thành công về điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ với 12/12 chỉ tiêu đạt và vượt so với chỉ tiêu Quốc hội giao.
Trong bài viết của mình, Thủ tướng nhấn mạnh: “Bất cứ quốc gia - dân tộc nào muốn trở nên thịnh vượng đều phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phục vụ cho phát triển. Đối với Việt Nam, để hoàn thành tốt các mục tiêu Đại hội XII của Đảng đã đề ra và tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thập niên tới đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đổi mới tư duy cũng như hành động một cách quyết liệt nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Thực tiễn hơn ba thập niên đổi mới đất nước cho thấy, mỗi khi nguồn lực của đất nước được giải phóng tối đa và sử dụng có hiệu quả thì tạo được thành tựu bứt phá trong phát triển. Ngược lại, những thời điểm nguồn lực không được khai thông, các tiềm năng, lợi thế không được phát huy đầy đủ, khi đó nền kinh tế bị rơi vào trì trệ, suy giảm động lực phát triển. 
“Bài viết của Thủ tướng nhấn mạnh rằng phải chủ động nắm bắt, tận dụng tối đa xu hướng dịch chuyển ngành, nghề gắn với dịch chuyển nguồn lực đang diễn ra hiện nay để nâng cao năng lực thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, hấp thu và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực.
Bài viết cũng khẳng định phải có chính sách ưu đãi vượt trội mang tính cạnh tranh quốc tế đối với các dự án lớn, quan trọng, có công nghệ tiên tiến để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở, thành lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm tài chính... tại Việt Nam”. 
(GS. TSKH Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài)
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, với hành trình hơn 2/3 chặng đường của toàn bộ nhiệm kỳ, chúng ta đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn thuộc tốp đầu các nước trong khu vực và thế giới, mức sống và chất lượng sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt, sức mạnh tổng hợp quốc gia được tăng cường, tạo thế và lực mới đưa đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Thời gian còn lại của nhiệm kỳ đang dần rút ngắn, tình hình thế giới và khu vực lại biến động phức tạp, khó lường. Vì vậy, chúng ta không được chủ quan, tự mãn với thành tích đạt được, phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, phát huy đầy đủ các động lực vật chất và tinh thần, tạo sức bật mới để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ toàn nhiệm kỳ và tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thập niên tới”.
4 định hướng lớn
Theo Thủ tướng, để thực hiện tốt nhiệm vụ tổng thể đó, cần tập trung vào 4 định hướng lớn sau đây:
Một là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xác định đúng các hướng lựa chọn ưu tiên để khai thác và giải phóng tối đa, huy động, sử dụng có hiệu quả các loại nguồn lực gắn với phát triển ngành, nghề mới trên cơ sở nắm bắt, tận dụng tối đa cơ hội mở ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0).
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra những yêu cầu mới đối với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng ở nước ta, mở ra cơ hội cho Việt Nam có thể bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới, bảo đảm không lỡ nhịp trong phát triển.
Để tránh rơi vào nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình”, duy trì và thúc đẩy đà tăng trưởng, chúng ta phải nắm bắt, tận dụng tốt các cơ hội đang mở ra từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, lấy động lực tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới sáng tạo thay thế dần cho các nguồn lực đầu vào truyền thống ngày càng khan hiếm hoặc mất đi lợi thế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đến khả năng huy động, khai thác, sử dụng có hiệu quả các loại nguồn lực khác, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức. Đổi mới mô hình tăng trưởng trước hết phải tạo được bước đột phá trong chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả nhân lực lãnh đạo, quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và lao động có kỹ năng. Cần phải đổi mới nội dung, phương thức giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ các bậc học nền tảng, đào tạo nghề đến giáo dục đại học. Đặc biệt coi trọng đào tạo lại và nâng cao kỹ năng của đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động tương thích, đủ năng lực vận hành chính quyền điện tử và tham gia nền sản xuất thông minh, kinh doanh dựa trên công nghệ hiện đại.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, phải có cơ chế để duy trì, nuôi dưỡng và phát huy động lực văn hóa - tinh thần, khát vọng phát triển trong mỗi người dân bằng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý chí tự cường. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phải chú trọng giáo dục khát vọng dân tộc, thúc đẩy liêm chính, nêu cao sứ mạng phục vụ người dân và doanh nghiệp; xây dựng biểu tượng trong mỗi giai tầng xã hội để làm gương, tạo ảnh hưởng lan tỏa rộng rãi, gắn với thực hiện tốt quy định nêu gương, nhất là gương người hiền tài, gương “người tốt, việc tốt”.
Chuyển sang mô hình tăng trưởng dựa trên sử dụng có hiệu quả nguồn lực tổng hợp, trước hết là dựa vào tri thức và khoa học - công nghệ, không thể tiến hành nóng vội, chủ quan, bất chấp trình độ phát triển, mà phải bằng các giải pháp khả thi, lộ trình phù hợp, tính toán đầy đủ các điều kiện kèm theo. Phải nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng: Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựa nhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí sáng tạo của con người Việt Nam và thành tựu khoa học - công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước. Khai thác và phát huy tối đa nội lực kết hợp với thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực, nhất là nắm bắt xu hướng dịch chuyển ngành nghề gắn với dịch chuyển nguồn lực trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay để tranh thủ, tận dụng tối đa các cơ hội.
 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gặp gỡ công nhân, lao động kỹ thuật cao tại thành phố Hồ Chí Minh (ngày 5.5.2019). Ảnh: Sơn Tùng 
Hai là, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, bảo đảm cho nguồn lực tự nhiên (đất đai, nước, khoáng sản...) được khai thông, giải phóng tối đa, vận hành thông suốt, phân bổ và sử dụng có hiệu quả theo cơ chế thị trường để phục vụ cho trước mắt và tính toán cả dự trữ cho tương lai.
Để khai thông, giải phóng tối đa các nguồn lực, trong những năm tới, cần nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm Đại hội XII của Đảng đã đề ra là “thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất”, “các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”. Phải tháo gỡ các “nút thắt” của cơ chế, chính sách khiến cho không ít nguồn lực chưa được khai thông, chậm được vốn hóa, cốt lõi là bảo đảm vai trò chủ yếu của thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực, chống các hiện tượng “bao cấp”, “phi thị trường” còn tồn tại dưới hình thức này hay hình thức khác, nhất là bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhờ đó mà nguồn lực đến đúng địa chỉ có khả năng sử dụng hiệu quả. Phải tập trung hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách, khung pháp lý điều chỉnh hạn điền, thực hiện tích tụ tập trung ruộng đất gắn với đổi mới mạnh mẽ hình thức tổ chức sản xuất và cơ cấu lại ngành nông nghiệp (4); phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp; chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối với đất nhà nước cho thuê trả hằng năm, đất ngập mặn do biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đô thị. Thực hiện nghiêm quy định đấu giá quyền sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước đối với giá trị gia tăng hình thành sau quy hoạch, sử dụng hiệu quả hơn công cụ thuế hoặc các hình thức phí có tính chất thuế, nhằm hạn chế tình trạng để đất hoang hóa, lãng phí, không đưa vào sử dụng trong thời gian dài. Xử lý có hiệu quả những bất cập trong quản lý, sử dụng đất của các công ty nông, lâm nghiệp, nhất là tình trạng lấn chiếm, chuyển nhượng, chuyển mục đích, cho thuê, cho mượn, giao khoán trái pháp luật; hoặc việc một số nông, lâm trường “phát canh thu tô” trong khi người dân địa phương không có đất sản xuất.
Ba là, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động tốt hơn nguồn lực ngoài nhà nước, nâng cao hiệu quả đầu tư công và hoạt động kinh doanh vốn nhà nước.
Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, là một phương cách bảo đảm cho nguồn lực xã hội được huy động và sử dụng có hiệu quả. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn tự mình quyết định sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào theo tín hiệu của thị trường, có thể ra quyết định huy động nguồn vốn và đầu tư trong thời gian ngắn, đẩy nhanh tốc độ thi công và hoàn thành công trình sớm để đưa vào khai thác, nhanh thu hồi vốn và sinh lời. Vì vậy, muốn huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực và phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Phải đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm các loại giấy phép con, cải cách mức thuế và thủ tục đăng ký của doanh nghiệp, thủ tục đăng ký hải quan, quyết liệt loại trừ tình trạng nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp, áp dụng các khâu công nghệ có thể thay thế con người trong đăng ký, cấp giấy phép để minh bạch hóa, giảm thiểu “tham nhũng vặt”.
“Thủ tướng nhắc rất nhiều về tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Thủ tướng nói rằng phải rà soát lại hệ thống cơ chế, chính sách để bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường, quản trị doanh nghiệp phải theo chuẩn mực hiện đại.
Tức là, phải để cho họ đầy đủ tự chủ để sáng kiến, sáng tạo, để tìm kiếm được người tốt nhất. Hãy giao mục tiêu cho họ, từ đó giám sát để đạt mục tiêu, còn làm gì hay làm thế nào thì nên để cho các doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp quyết định và họ hưởng lợi xứng đáng từ phần họ làm ra, chứ đừng khống chế theo chi tiêu hay tiền lương. Họ cũng phải được quyền tự chủ về bổ nhiệm cán bộ và và tài chính”.
(TS Nguyễn Đình Cung)
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận rất quan trọng của kinh tế nhà nước, nắm giữ nguồn lực lớn của toàn xã hội, phải tiếp tục được cơ cấu lại, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được thành lập, vận hành một thời gian, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định, cơ chế, nhân sự, phương thức hoạt động, đủ năng lực thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu, quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp, được phân tách với chức năng quản lý nhà nước. Với tư cách là nhà đầu tư, doanh nghiệp nhà nước phải được trao quyền kinh doanh vốn nhà nước một cách bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm như mọi chủ thể khác trong nền kinh tế thị trường, làm cho vốn nhà nước luôn được bảo toàn và sinh lời. Phải rà soát lại hệ thống cơ chế, chính sách để bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường, quản trị doanh nghiệp phải theo chuẩn mực hiện đại. Tôn trọng tính độc lập trong việc thực hiện quyền và trách nhiệm của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc, ban điều hành doanh nghiệp nhà nước để hoạt động và quản trị của doanh nghiệp nhà nước được thực hiện một cách minh bạch, giải trình, chuyên nghiệp và hiệu quả cao. Giao quyền tự chủ rộng rãi cho doanh nghiệp nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường gắn với kiểm tra, kiểm soát, quản lý chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn, nhất là vay nợ nước ngoài, các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài, nguồn vốn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà tư nhân không làm hay chưa làm.
Bốn là, chủ động nắm bắt, tận dụng tối đa xu hướng dịch chuyển ngành, nghề gắn với dịch chuyển nguồn lực đang diễn ra hiện nay để nâng cao năng lực thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, hấp thu và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực.
Hiện nay, nước ta đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nên nguồn ODA khó khăn hơn, điều kiện ngày càng ngặt nghèo. Cần phải sử dụng có hiệu quả, tránh để gánh nặng nợ nần cho các thế hệ tương lai. Việc thu hút nguồn đầu tư FDI cần chuyển trọng điểm từ nhấn mạnh số lượng sang coi trọng hơn nữa chất lượng; ưu tiên các dự án tạo giá trị gia tăng cao, có công nghệ và mô hình quản trị hiện đại, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; lấy chất lượng, hiệu quả công nghệ và bảo vệ tài nguyên môi trường làm tiêu chí đánh giá chủ yếu. Chú trọng các nguồn lực khác, như kiều hối, nguồn xuất khẩu lao động,... để khai thác, sử dụng hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Cần tận dụng cơ hội được mở ra khi thực hiện các hiệp định tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) cũng như các hiệp định tự do thương mại khác mà Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết với các đối tác để thu hút đầu tư, mở rộng thị trường, tiếp thu công nghệ, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Cần bám sát xu hướng dịch chuyển các dòng FDI gắn với dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu mới phát sinh từ chiến tranh thương mại, cạnh tranh nguồn lực giữa các quốc gia đang diễn ra gay gắt,... để đề ra chính sách linh hoạt, hiệu quả trong thu hút FDI.
Phải nắm vững quan điểm nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, hấp thu và chuyển hóa ngoại lực thành nội lực khi xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể thu hút nguồn lực bên ngoài.
Chúng ta cũng phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, khắc phục các “lỗ hổng” để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước, chống chuyển giá, bảo đảm an ninh tài chính, phòng ngừa với các rủi ro khủng hoảng tài chính của đầu tư gián tiếp...
Năm 2020 là năm Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đồng thời là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Cần phải tận dụng cơ hội này để nâng cao hơn nữa vị thế đất nước, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước thời cơ và vận hội mới, để làm tốt những công việc trên đây, đòi hỏi chúng ta phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, nhất là đẩy mạnh cải cách hành chính để khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, bảo đảm cả nguồn lực vật chất và tinh thần, nguồn lực trong nước và quốc tế được kết nối, vận hành thông suốt, phát huy cao độ, cùng tạo nên động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
(Bài viết sử dụng tư liệu trong bài “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nhằm khai thông, giải phóng tối đa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững” của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc)
Nhật Minh (LĐO)

Có thể bạn quan tâm