Phóng sự - Ký sự

Bài 3: “Biển ơi, mở ra”…

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Câu “rừng vàng, biển bạc” giờ có lẽ đến lúc đổi lại: “Biển vàng…”. Ra đến Trường Sa mới thấy đất nước mình giàu, và đẹp… trọn vẹn, lại tiếc rằng tiềm năng chưa thực sự khai mở; lại thấy rằng tất cả những gì đã xem, đã đọc về biển đảo quê hương vẫn còn ít ỏi. Đến Trường Sa, tư duy về biển đảo chắc chắn sẽ thay đổi và thay đổi cả những toan tính bon chen, đố kỵ… đâu đó ngày thường vẫn tồn tại ở đất liền. Đó là vài phác thảo cảm xúc khi tôi vinh hạnh là một thành viên trong Đoàn công tác số 4 (mà đoàn Gia Lai là nòng cốt) ra thăm quần đảo Trường Sa cuối những ngày tháng tư lịch sử.
Đoàn công tác tỉnh Gia Lai chụp hình lưu niệm tại cột mốc đảo Trường Sa lớn. Ảnh: Bích Hà
Đoàn công tác tỉnh Gia Lai chụp hình lưu niệm tại cột mốc đảo Trường Sa lớn. Ảnh: B.H
“Toàn tàu báo thức; báo thức toàn tàu”, câu khẩu lệnh được đảo ngữ lặp lại như quy ước biển khơi được phát ra từ đài chỉ huy của tàu HQ 957 đúng 5 giờ sáng mỗi ngày trong toàn bộ hải trình; về đến đất liền vẫn ám ảnh thân thương và chông chênh như thể vẫn chưa hề rời xa biển đảo. Thường vào tầm 5 giờ 30 phút, đoàn công tác mang phao xếp hàng xuống xuồng lên đảo, gần thì vài trăm mét, xa có đến vài cây số, sóng đánh dập dồn. Lại, “Ban Chỉ huy hành quân xin thông báo lịch làm việc trên đảo Thuyền Chài (hôm sau lại là đảo Phan Vinh, Đá Lát, Tiên Nữ, Trường Sa Đông…) như sau…”. Sau điệp khúc quen thuộc ấy là thông tin về “nhân thân” của mỗi hòn đảo, điểm đảo thân yêu: Đảo rộng x km, dài y km, điều kiện đời sống tinh thần, vật chất trên đảo… và, “Xin lưu ý Đoàn công tác số 4, từ đầu năm 2010 đến nay, tình hình trên khu vực quần đảo Trường Sa diễn biến phức tạp; tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường”… Chúng tôi thường lặng đi trước bản tin ngắn gọn này bởi ai cũng hiểu, với những gì diễn ra trên biển Đông thời gian gần đây, đằng sau đó là gì (…).
Ít thì mỗi ngày một bận “xuống xuồng, lên đảo; lên xuồng về tàu”, nhiều thì đến 6 lần. Nhiều điểm đảo, đoàn chỉ kịp lên thăm cán bộ-chiến sĩ đúng một tiếng đồng hồ, bao gồm cả thăm, làm việc, tặng quà, giao lưu văn nghệ; chưa kịp thuộc tên nhau đã phải về tàu, cho kịp con nước thủy triều, và kịp tiếp nối hải trình sang thăm đảo khác, cách nhau có nơi đến cả trăm hải lý; để lại phía sau những cánh tay vẫy mãi, như những lời nhắn nhủ khôn cùng với những đại diện đất liền. Phía trước lại là mênh mông trời biển.
Cá mú Trường Sa
Cá mú Trường Sa. Ảnh: Bích Hà
Có những chiều hoặc đêm, tàu neo lại vùng biển lặng, chờ thủy triều lên kịp vào đảo sáng sau. Trong nhập nhoạng đèn tàu, từng đàn cá heo cả trăm con tung mình lên mặt biển, nô đùa như thể con tàu mới chính là “nhà” của chúng; đây đó dăm bảy “ngư thủ” nhẫn nại buông câu, cá câu được có con vài ba ký, lại có con hàng chục ký. Những phút thư giãn hiếm hoi đó khiến có người buột miệng: “Biển của ta giàu thật!”. Thật ra thì quần đảo Trường Sa giàu gấp nhiều lần điều mà bạn có thể tưởng tượng. Không chỉ là hải sản hay động vật biển nói chung vốn vô cùng phong phú. Theo sách “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa” (tác giả M.C. Gendreu. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia-1998), khu vực quần đảo Trường Sa bao quanh bề mặt diện tích 160.000 km2 (gấp hơn 10 lần so với quần đảo Hoàng Sa) có đến 25 tỉ m3 khí, 105 tỉ thùng dầu, 370.000 tấn phốt pho…
Cùng với Hoàng Sa trên biển Đông và xuyên hai quần đảo này là tuyến hải hành quan trọng, chuyển tải đến một phần tư lượng hàng hóa của cả thế giới. Vì vậy nó có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng. Và, thành miếng mồi hấp dẫn cho nền kinh tế nào đó “háu đói” mà lại tham tàn, vẫn ngày đêm rình rập, bất chấp những giá trị pháp lý về chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Cũng theo sử liệu, từ thế kỷ XVII, XVIII, khi mà chưa quốc gia nào trong khu vực quan tâm hoặc đặt dấu ấn bất kỳ nào trên hai quần đảo, các Chúa Nguyễn rồi đặc biệt là từ triều vua Gia Long đã xác định chủ quyền, hàng năm cử các đội hải binh từ Bình Sơn, Lý Sơn (Quảng Ngãi) ra Hoàng Sa đặt mốc chủ quyền, đồn trú, bảo vệ, cứu hộ ngư dân Việt Nam đánh cá, thu hồi hóa vật, trưng thuế biển, lập vẽ bản đồ… Các đội hải binh này còn kiêm quản cả quần đảo Trường Sa vốn nhiều hiểm trở. Ngay từ bấy giờ, Nhà Nguyễn đã xác định toàn bộ trên hai quần đảo đã có chừng 130 đảo lớn, đảo nhỏ, bãi chìm, đảo đá… trong đó riêng Trường Sa đã có trên 100 đảo. Việc duy trì chủ quyền tại Hoàng Sa được liên tục thực hiện cho đến những nhập nhoạng chiến tranh thời thuộc Pháp và sau này đã khiến toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng vào các năm 1956 và 1974.
“Tình hình trên khu vực quần đảo Trường Sa diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường”… điệp khúc ấy văng vẳng bên tai trong liên tưởng tới hàng loạt sự việc bất thường lặp đi lặp lại trên biển Đông từ năm 2009 tới nay, và ngày càng nóng hơn: Ngư dân Quảng Ngãi liên tục bị bắt giữ trên vùng biển chủ quyền; tàu Ngư chính Trung Quốc liên tục quần đảo trên vùng biển Trường Sa… Đoàn vừa về đất liền lại nhận thông tin (từ báo chí trong nước): Tàu Ngư chính lại tăng cường hoạt động trên vùng biển Trường Sa; lại thêm 9 ngư dân Lý Sơn bị bắt giữ (ngay trước khi đoàn ra đảo đã có 12 ngư dân Lý Sơn bị bắt giữ, hiện vẫn bị giam ở đảo Phú Lâm-Hoàng Sa; một quả ngư lôi “lạ” có chữ Trung Quốc… trôi dạt vào vùng biển Quảng Trị…
 Trên hàng chục đảo, điểm đảo đoàn chúng tôi đến thăm, các đồng chí “đảo trưởng” thường báo cáo tình hình với đoàn bằng những con số, ví như: (Thời gian qua), đã có từng này tàu thuyền ngư dân Việt Nam tham gia đánh bắt trên quần đảo chủ quyền; cán bộ-chiến sĩ trên đảo đã giúp từng này ngư dân chữa bệnh, giúp từng này nước ngọt, trên đảo cũng trồng từng này rau xanh, đánh bắt được từng này hải sản… và không quên mục tiêu trọng tâm: “Đã phát hiện, xua đuổi (từng này) “tàu lạ” xâm nhập vùng biển chủ quyền”. Mà “tàu lạ” thường rất lỳ, đuổi ra lại vào. Canô cao tốc CQ ở đảo thường phải hoạt động hết công suất để xua đuổi “tàu lạ”; trong khi “nước lạ” thì thường xuyên tăng cường bắt bớ, đánh đập ngư dân Việt Nam đánh bắt hải sản trong vùng biển của mình (!). Các sĩ quan giải thích: “Đối sách của ta là vậy”; văn minh, cao thượng, nhân đạo hơn rất nhiều. So với quần đảo Hoàng Sa vốn có độ sâu nhất trên 1.000 mét, thì ở Trường Sa, cùng với vô vàn những rạn đá ngầm, nơi có độ sâu nhất đạt tới 3.000 mét; lại có vùng nguy hiểm tựa như “Tam giác quỷ” không tàu bè nào dám qua lại (theo sách đã dẫn). Có nhiều đêm con tàu HQ 957 dềnh dàng là thế bỗng trở nên cô quạnh hơn bao giờ trước mênh mông biển đêm thăm thẳm; bất chợt thương những con tàu cá nhỏ nhoi và lẻ loi từ ven biển miền Trung ra đánh bắt ở Trường Sa, trông chẳng khác cái… lá tre biết chạy. Chợt ước ao ta sớm có được những hải đoàn đi biển hiện đại, kèm theo những tàu hộ vệ còn hiện đại hơn…
Cô giáo Nhung ở đảo Trường Sa lớn. Ảnh: N.T
Cô giáo Nhung ở đảo Trường Sa lớn. Ảnh: N.T
Đoàn xuống tàu lên đảo Trường Sa lớn-cũng là “thị trấn huyện lỵ” Trường Sa. Do đã tham khảo thông tin từ trước, tôi bèn hỏi với cả đoàn quân và dân huyện đảo đang xếp hàng đón khách, có cả trẻ con: “Có ai là cô giáo Bùi Thị Nhung?”. “Dạ, em!”, chất giọng đặc sệt người dân miền biển Khánh Hòa. Một cô gái mặc áo dài hoa bẽn lẽn bước ra khỏi hàng, trên tay vẫn dắt con nhỏ. Đó là một cô giáo đáng để… cả ngành Giáo dục Việt Nam khâm phục: Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, đã vào biên chế nhà nước, dạy học mấy năm ở ven bờ… mà vẫn tự nguyện cùng chồng con ra xây dựng huyện đảo.
Hiện giờ Nhung vẫn là cô giáo duy nhất có mặt ở huyện đảo Trường Sa; dạy một lúc… 6 lớp. Cô tính cho tôi nghe: “Mẫu giáo có 3 lớp (nhỏ, nhỡ, và lớn), có học sinh lớp 1, lớp 3, và một học sinh lớp 4. Không có lớp 2”. Cái lớp học “buồn cười” này có lẽ chỉ có ở Trường Sa. “Thương các cháu mà đi thôi anh ạ”. Nhung có chồng “phụ việc” ở UBND thị trấn huyện đảo. Ra đảo cô (cũng như các hộ dân khác) gây dựng một vườn rau xanh nho nhỏ đủ ăn; lương tháng được chừng 5-6 triệu đồng thì một phần ba số đó phải gửi tàu về đất liền mua gia vị và nhiều nhu yếu phẩm khác. Đảo chưa có chợ; bộ đội cũng không có căng tin nên quân dân đề huề sinh hoạt chung, ăn uống chung; thiếu thốn mà vẫn vui như một đại gia đình. Chiều chiều các cháu nếu không vào “doanh trại” học hát với các chú thì tụ tập chơi ô ăn quan ngay trên nóc… công sự. Đáng mừng là đất liền ngày càng quan tâm nhiều hơn tới biển đảo, đặc biệt là Trường Sa: Đoàn ra thăm, tặng quà nhiều hơn; tốc độ xây dựng cao hơn; đầu tư trang-thiết bị bảo vệ chủ quyền biển đảo cũng tốt hơn… Chỉ có cái cảm giác cô quạnh giữa biển khơi hình như chưa thay đổi được nhiều. Những cái vẫy tay tạm biệt của quân và dân huyện đảo, trên suốt hải trình qua 15 đảo, điểm đảo và nhà giàn mà đoàn chúng tôi đi qua là những cái vẫy tay chí tình, đắm đuối, xót lòng, tuồng như muốn níu giữ khôn cùng cái hơi ấm đất liền vừa mới kịp tỏa đến đã rời đi…
Nguyễn Thịnh

Có thể bạn quan tâm