(GLO)- Nói tới nghề buôn trầu ở An Khê xưa khiến người ta liên tưởng ngay đến vương triều Tây Sơn, gắn với tên tuổi người anh hùng áo vải Nguyễn Nhạc. Trước khi tụ binh dấy nghiệp lớn, lãnh tụ phong trào nông dân từng có thời gian sinh sống bằng nghề buôn trầu. Hoạt động buôn bán này giúp ông đi nhiều nơi, hiểu sâu sắc và có nhiều cơ duyên với người Thượng trong những ngày đầu dấy binh tụ nghĩa trên vùng thượng đạo.
Vương triều sụp đổ, nhưng trăm năm sau, những người từng mến nghĩa anh em Tây Sơn, theo lên miền thượng đạo tụ nghĩa, vẫn giữ nghề buôn trầu làm kế sinh nhai. Những câu chuyện về người anh hùng áo vải cờ đào thường nhuốm màu truyền thuyết, nhưng nghề buôn trầu đến hôm nay vẫn được các bô lão kể lại với người thật, việc thật.
Buôn “lộc bà”
Chiều chiều, các bô lão thường ngồi ôn lại chuyện xưa tích cũ trên vùng đất An Khê xưa. Ảnh: Hoàng Ngọc |
Ông Trần Giới (hay còn gọi là cụ Ba Cảnh)-một trong những bô lão sống lâu đời ở An Khê, có ông nội và cha đều làm nghề buôn trầu. Ông kể: “Tôi nghe cha kể lại, ông nội đưa cả gia đình lên An Khê từ trước những năm 1900, tức là gia đình tôi đã có mặt ở đây từ hơn trăm năm trước. Hồi đó rất hiếm người gọi vùng đất này là An Khê, chỉ gọi vùng thượng đạo để phân biệt với vùng hạ đạo ở dưới đèo. Ông nội và cụ thân sinh tôi đều đi buôn trầu, vào các làng Thượng mua trầu nguồn bán về dưới vùng hạ đạo. Cả xóm Lũy (nay thuộc tổ dân phố 14-phường Tây Sơn và 16 phường An Phú) người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề này”.
Ông bà thường nói “phi thương bất phú”, riêng nghề buôn trầu có thể nói là đại phú bởi mua một nhưng về bán năm, bán bảy. Cụ Ba Cảnh nhớ lại: “Hồi ấy trầu đắt hàng lắm. Chỉ những bạn hàng lâu lắm, buôn bán uy tín cha tôi mới chia trầu để họ mang về xuôi. Có người quang gánh đi bộ từ Bình Định lên, rồi phải nằm lại nhà tôi thêm vài ngày chờ cha tôi trở về để được chia vài ràng trầu gánh về dưới. Nghề buôn trầu giúp cha tôi sắm ngựa, sắm xe không thiếu thứ gì”. Cụ Ba Cảnh cho hay, trầu ở vùng thượng đạo nhiều nhất tập trung ở ba nguồn chính: nguồn Ốc Bưu (vùng Nam An Khê ngày nay), nguồn Tầu Dầu-(vùng Đak Pơ) và một nguồn ở khu vực Quảng Ngãi. Để mua được trầu ngon, những người buôn trầu thường phải hẹn trước với người Thượng. Lịch hẹn được tính bằng một sợi dây. “Nhiều lần theo cha đến các nguồn trầu, tôi thấy sau mỗi lần thu trầu, cha thường buộc lại ràng trầu một sợi dây hẹn. Chẳng hạn, hẹn 15 đêm ông thắt 15 nút buộc. Mỗi nút tương ứng với một đêm và dặn người trồng trầu mỗi đêm nhớ mở ra một nút để đúng hẹn, sẽ có trầu hái sẵn chỉ việc đến lấy. Người Thượng họ rất uy tín, đã hẹn với ai thì không bao giờ lỗi hẹn. Và dù lái buôn khác có đến trả giá trầu cao hơn họ cũng chỉ để cho người đã hẹn trước”.
Người ta tính trầu bằng cách xếp 10 lá thành một xếp, 10 xếp thành một trăm, 10 trăm thành một thiên, 10 thiên là một ràng. Lá trầu nguồn từ vùng An Khê được xem là loại trầu ngon bậc nhất, không nơi nào sánh bằng. “Trầu nguồn ngon hơn hẳn trầu nhà, dẻo và thơm hơn. Nhai miếng trầu xong nhổ miếng bã trầu cũng đẹp. Ông bà mình hồi xưa coi việc ăn trầu là một cái thú. Cái thú ấy cũng thanh nhã lắm, đến miếng bã trầu nhổ đi cũng phải đẹp”-cụ Ba Cảnh hóm hỉnh nhận xét.
Nghề buôn trầu tàn lụi dần cho đến 9 năm chống Pháp thì hầu như chấm dứt hẳn. Có lẽ những năm tháng khó khăn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, chẳng ai còn nghĩ tới thú thưởng trầu. Cụ Ba Cảnh nhận định: “Dân gian thường gọi trầu là lộc bà, hẳn có nguyên do nào đó. Có lẽ vì thế mà nghề này không thể kéo dài. Lộc bà đến rồi đi cũng là lẽ thường”.
Giao thương hai miền
Hai chú ngựa nhởn nhơ gặm cỏ ngay trước An Khê đình gợi nhớ một thời kỳ giao thương tấp nập mà phương tiện vận chuyển chủ yếu chỉ dùng sức ngựa. Ảnh: Hoàng Ngọc |
Theo trí nhớ của cụ Ba Cảnh, nghề buôn trầu phát triển nhất vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Hoạt động buôn bán này góp phần tạo mối quan hệ giao thương buôn bán tấp nập giữa hai vùng, sản vật từ thượng đạo mang xuống và từ hạ đạo mang lên. Vì thế, bất kỳ ai thời ấy cũng thuộc lòng hai câu thơ: “Ai về nhắn với nậu nguồn/Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên”. Cụ Ba Cảnh cho biết thêm, hoạt động buôn bán này cũng bị Pháp kiểm soát gắt gao. Cụ nhớ lại: “Ông nội và cha tôi được cấp một thẻ căn cước, chụp hình, đóng dấu nổi hẳn hoi. Mỗi năm phải nộp thuế môn bài mấy đồng bạc. Nếu chẳng may bị Pháp kiểm tra mà không có thẻ này coi như đi tong”.
Cụ Bùi Sỹ Châu (86 tuổi)-một bô lão sống cùng thời với cụ Ba Cảnh cũng góp thêm vào câu chuyện những thông tin thú vị. Cụ kể: “Thời ấy những người buôn trầu vào các làng không chỉ mua trầu mà mua tất cả sản vật của người Thượng: mật ong rừng, măng le, măng mỡ, mè đen, gà rừng… Đặc biệt là mùa trâu tháng 8. Trước đây người bản địa không nuôi bò như ngày nay mà chỉ toàn trâu. Mùa tháng 8 trở đi, dân buôn bắt đầu vào các làng mua trâu để bán về xuôi. Ngược lại, họ cũng mang muối, đường, chỉ trắng, rìu, rựa vào bán cho đồng bào. Những cuộn chỉ trắng sau đó được người Thượng chặt cây rừng về nhuộm thành chỉ đen, chỉ đỏ dệt vải”.
Những sản vật ở thượng du chuyển xuống vùng hạ đạo bằng hai đường chính, hoặc dùng sõng đi dọc sông, hoặc dùng xe ngựa. Mặc dù sức trâu khỏe hơn nhưng lái buôn vẫn chỉ dùng ngựa để thồ hàng vì ngựa đi nhanh. “Hồi đó đường rừng gập ghềnh hiểm nguy lắm, không như bây giờ, vì thế phương tiện chủ yếu là dùng xe ngựa. Những nhà đi buôn thường nuôi 3-5 con ngựa, mỗi lần vào làng thu mua trầu và các sản vật thường từ 5 ngày đến 10 ngày, luôn có người dẫn ngựa theo để dự phòng. Chẳng may trên đường xa, ngựa gãy chân hoặc đau ốm mà không có con khác để thay, chỉ biết bỏ xe giữa đường”-cụ Ba Cảnh kể. Trong ký ức của cụ, cả xóm Lũy là dân buôn nên ngựa được nuôi rất nhiều. Hình ảnh những bầy ngựa thong dong gặm cỏ hay tiếng ngựa hí trên đường báo hiệu mỗi chuyến ra đi hay trở về trở thành thanh âm thân thuộc, đến giờ vẫn còn ám ảnh. Cả xóm Lũy giờ còn lại duy nhất hai chú ngựa. Chàng thanh niên chăn ngựa cho hay, gia đình anh nuôi ngựa như người ta nuôi vật cảnh, không phải để lấy sức kéo hay bất kỳ mục đích thực dụng nào.
Mỗi lần vào xóm Lũy, đi trên những con đường nhỏ như đường quê, thảng hoặc bắt gặp những ngôi nhà tường rêu, vách đất với những ô cửa sổ vuông hướng ra đường, tôi cứ có cảm giác lạc vào một chốn quê nào đó. Nghe các bô lão ôn lại chuyện xưa tích cũ trên vùng đất An Khê, trở về bắt gặp hai chú ngựa nhởn nhơ gặm cỏ ngay trước An Khê đình, bỗng thấy bâng khuâng trước những thứ đã trôi xa về những ngày tháng cũ.
Hoàng Ngọc