Chính trị

Tin tức

Xây dựng Đảng

Nhớ mãi tháng 4 lịch sử

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Cách đây 45 năm, tôi là học sinh lớp 12 Trường Trung học Pleiku (nay là Trường THCS Nguyễn Du). Bước vào giữa tháng 3, chúng tôi đã cơ bản hoàn thành chương trình học, nhà trường đã cho học sinh khối 12 thi thử Tú tài để làm quen với kỳ thi quốc gia sắp tới, đồng thời rút kinh nghiệm để thầy-cô giáo ôn tập cho chúng tôi tốt hơn. Vượt qua kỳ thi thử, tôi cảm thấy tự tin hơn với vốn kiến thức tương đối ổn. Chỉ còn vài ba tháng nữa là thi chính thức nên chúng tôi không còn thời gian thư giãn cùng bè bạn, ai cũng vùi đầu vào đống sách vở để bước vào “trận thư hùng” cuối cùng của đời học sinh.



Nhưng rồi mọi thứ đổi thay! Tôi bắt buộc phải thực hiện một chuyến “phượt” bất đắc dĩ khi cùng gia đình làm cuộc di tản về đồng bằng trên con đường bị bỏ hoang nhiều năm. Sau này, Frank Snepp, một cựu nhân viên CIA tại Sài Gòn đã gọi đó là “cuộc tháo chạy tán loạn” (The decent interval, Ngô Dư dịch,  Nhà Xuất bản TP. Hồ Chí Minh-2011) trên đường 7. Chứng kiến sự hoảng loạn của người dân và binh lính Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở cửa ngõ Phú Bổn, nhất là ở đèo Tô Na thì tôi hiểu việc gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhìn hàng ngàn xe quân sự, tăng thiết giáp và vô số khí tài của binh lính VNCH bỏ lại trên đường 7, nhiều người đã tưởng tượng được viễn cảnh của chính quyền Sài Gòn trong những ngày sắp tới. Bấy giờ, trong cái đầu non nớt của tôi luôn thường trực câu hỏi: Với khí tài và lực lượng hùng hậu như thế, tại sao Quân đội VNCH lại tan rã nhanh chóng như vậy? Câu hỏi ấy, mãi sau này khi có điều kiện tìm hiểu về cuộc chiến, tôi mới thấu hiểu.

Người và xe ùn ứ trong cuộc rút chạy trên đường 7 (ảnh tư liệu).



Thì ra, bấy giờ, những ngày đầu tháng 3 ấy, khi tôi còn đang ngẩn ngơ cắp sách đến trường ở thị xã Pleiku, tưởng đâu cuộc sống vẫn bình yên thì các sư đoàn Quân chủ lực Giải phóng đã bí mật di chuyển về phía Đak Lak, khép chặt vòng vây Buôn Ma Thuột, mở màn cho Chiến dịch Tây Nguyên. Trận “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột, thắng lợi của Quân Giải phóng (ngày 10 đến 11-3-1975) mở ra thời cơ lớn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Đến đây, tôi nhớ câu thơ trong bài “Học đánh cờ” của Bác: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí/Gặp thời một tốt cũng thành công”. Việc quyết định tiến công vào điểm yếu Buôn Ma Thuột mà không chọn vùng Bắc Tây Nguyên (Gia Lai và Kon Tum) là sự lựa chọn sáng suốt với chiến thuật bí mật nghi binh tài tình, khiến phía địch lâm vào thế lúng túng, hoàn toàn bị động. Nhiều tài liệu đã mô tả sự phán đoán sai lầm của địch, nhất là Tướng Phạm Văn Phú-Tư lệnh Quân đoàn 2 giữa những ngày tháng 3-1975 ở Pleiku. Đa số ý kiến của tướng tá, tình báo địch đều nhận định là có khả năng ta tiến công vào Pleiku hoặc Kon Tum, nhưng khi cuối cùng chúng phát hiện quân ta chuẩn bị tiến công Buôn Ma Thuột thì đã muộn.

Tôi có dịp gặp gỡ ông Lê Chí Quyết-nguyên cán bộ lãnh đạo tỉnh Đak Lak, người trực tiếp tham gia Chiến dịch giải phóng Buôn Ma Thuột. Ông Quyết kể: Bấy giờ, các lực lượng chủ lực và địa phương của ta đã bí mật chuẩn bị khá chu đáo, thực hiện triệt để phương châm “đi không dấu, nấu không khói”, ém quân đến giờ phút cuối cùng. Và khi ta mở màn chiến dịch, quân địch hoàn toàn bất ngờ, nhanh chóng bị khống chế. Chỉ sau hơn 24 giờ chiến đấu, ta đã làm chủ tình hình một cách tự tin. Mất Buôn Ma Thuột, toàn hệ thống quân địch ở Tây Nguyên lung lay, dẫn đến việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút lui, bỏ cao nguyên trung phần về phòng thủ vùng Duyên hải miền Trung và Sài Gòn. Vào trung tuần tháng 3-1975, cuộc rút quân khỏi Pleiku theo con đường 7 được địch cho là bất ngờ và an toàn, vì đường 19 về đồng bằng đã bị ta đánh chặn từ trước. Nhưng rốt cục, chúng đã bị ta khóa chặn từ phía Sông Bờ, Phú Bổn, toàn bộ quân địch nhanh chóng tan rã, biến cuộc rút quân trong trật tự thành cuộc tháo chạy tán loạn, đúng như Frank Snepp mô tả. Trong đợt truy kích địch về phía Phú Yên, một đơn vị của Sư đoàn 320 đã khóa chặt ở Củng Sơn và toàn bộ đầu não của Quân đoàn 2 VNCH đã bị bắt.

Trong một dịp kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi đã gặp và phỏng vấn Đại tá Phạm Xuân Hùng-Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 (sau này là Thượng tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam). Ông cho biết, bấy giờ, đơn vị ông nhận lệnh truy kích địch từ Phú Bổn về Phú Yên. Khi đến Củng Sơn, ông được mật báo là trong đám tàn quân ở đây có Tướng Trần Văn Cẩm, người thay mặt Tướng Phú chỉ huy cuộc rút binh lần này. Nhờ vậy, đơn vị ông đã tìm bắt được vị chỉ huy của Quân đoàn 2 cùng một số sĩ quan tùy tùng đang tìm cách lẩn trốn về Duyên hải miền Trung.

Có thể nói, ở Tây Nguyên, sau trận Buôn Ma Thuột, chúng ta chưa đánh thì địch đã tan rã, toàn bộ Quân đoàn 2 xem như bị xóa sổ. Các nhà chiến lược trước đây thường ví “mất Tây Nguyên xem như mất tất cả” vì đây là địa bàn chiến lược. Quả thật, sau cuộc lui binh bất thành ở Tây Nguyên, toàn bộ miền Trung rúng động, Quân Giải phóng trong thế “chẻ tre” lần lượt giải phóng các tỉnh thành, từ Thừa Thiên-Huế đến Đà Nẵng, Nha Trang… và cô lập phía Sài Gòn. Khi mở Chiến dịch Hồ Chí Minh thì các cánh quân của ta từ nhiều hướng tràn về như nước lũ với chủ trương là “thần tốc và táo bạo”. Chỉ trong 55 ngày đêm, Quân Giải phóng đã chiếm Dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh đã đầu hàng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

Tháng 4-1975 vô cùng đáng nhớ bởi cuộc đời học sinh phổ thông của tôi đã kết thúc trong sự gập ghềnh đầy biến động. Nhưng trong thời điểm ấy, tôi đã học được một bài học lịch sử hết sức thú vị khi vô tình có mặt trong dòng người di tản và chứng kiến sự thật trên con đường 7. Sau ngày 30-4-1975, tôi vẫn tiếp tục ôm sách vở đến trường trong tâm thế của một công dân chế độ mới. Khi hoàn thành bậc học phổ thông, tôi được đào tạo cấp tốc để trở thành giáo viên và hăm hở bước vào nghề khi đất nước vừa trải qua cuộc chiến đầy gian khổ, hy sinh. Từ đây tôi hiểu mình cần làm gì để góp một phần nhỏ công sức vào hàn gắn những vết thương ấy!

BÙI QUANG VINH

Có thể bạn quan tâm