Có sống kiếp nô lệ lầm than dưới gông xiềng thực dân phong kiến mới đủ tự hào khi được làm người dân tự do của một quốc gia độc lập. Nhưng độc lập không phải là một giá trị từ trên trời rơi xuống, mà đó là thành quả của quá trình đấu tranh đầy gian khổ và hy sinh để giành lấy. Trong âm vang chiến thắng Bạch Đằng khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán năm 938, kết thúc ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ, ta cảm nhận được máu của những đoàn quân khởi nghĩa từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Dương Đình Nghệ... đã âm thầm đổ xuống. Phải đủ đắng cay tủi hờn, phải đủ thời gian, không gian chờ đợi thì máu của những người ngã xuống mới có thể kết thành khoảnh khắc huy hoàng.
Phải nếm đủ mùi tự hào và thất bại từ những phong trào kháng Pháp như Cần Vương, Yên Thế, Yên Bái, Việt Nam Quang phục hội; thấm đẫm những bài học thành công lẫn tổn thất từ phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh đến Khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn, Đô Lương… và xem đó là những cuộc diễn tập cần thiết thì hàng triệu người Việt Nam nô lệ mới có đủ động lực đứng dậy làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đập tan xiềng xích nô lệ, giành tự do cho mình và độc lập cho Tổ quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 (ảnh tư liệu). |
Vì vậy, nếu mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” thì cuối bản tuyên ngôn, Người đã nói thay ý chí của dân tộc Việt Nam là sẽ “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Thực tiễn chứng minh, độc lập, tự do không phải là những giá trị từ trên trời rơi xuống, mà đó là những giá trị thiêng liêng được đánh đổi bằng máu xương của hơn 1.146.250 liệt sĩ, hơn 800.000 thương-bệnh binh, gần 111.000 người hoạt động cách mạng, kháng chiến bị địch bắt tù đày cùng hàng vạn nạn nhân phải mang trong mình di chứng của chất độc da cam/dioxin.
Lịch sử là những câu chuyện đa chiều. Tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại về cơ bản vẫn là lịch sử những cuộc chiến tranh. Nhiều dân tộc phải qua chiến tranh mới giành được độc lập. Nhưng cũng có những dân tộc mãi mãi không thể giành lại quyền độc lập hoặc chỉ độc lập trong thời gian ngắn rồi lại bị đánh mất, thậm chí là bị diệt vong, đồng hóa, bị xóa sổ trên bản đồ thế giới. Cho nên, đổ máu mà có được độc lập như chúng ta thì đó là độc lập bền vững, một thứ độc lập được nối tiếp, được bảo vệ trước mọi tình huống hiểm nguy. Giá trị đáng tự hào của độc lập, tự do chính là chỗ ấy. Không hiểu được giá trị độc lập là có tội với cha ông. Không phát huy được cảm thức độc lập, mọi dân tộc đều có thể đứng trước nguy cơ đánh mất cơ đồ lớn lao mà cha ông để lại.
Đâu phải cứ muốn độc lập là phất cờ đứng lên, quyết sống mái một trận là xong! Mà phải trải qua một ngàn năm Bắc thuộc với bao kiếp người thống khổ, chúng ta mới có được một trận Bạch Đằng lừng lẫy của Ngô Quyền; phải mất gần 1 thế kỷ tìm tòi, thử nghiệm, hy sinh to lớn, chúng ta mới có được một ngày thu rực rỡ nắng vàng trên Quảng trường Ba Đình lịch sử để Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Nền độc lập non trẻ ấy cũng phải mất thêm 9 năm kháng chiến trường kỳ với bao gian khổ hy sinh “máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn”. Rồi phải mất thêm 21 năm 2 miền bị chia cắt, hàng triệu người con đã phải hy sinh, máu xương thấm đỏ Trường Sơn, chúng ta mới có được một ngày thống nhất non sông, Bắc-Nam sum họp một nhà.
Bằng quyết tâm “dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập”; bằng tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”; bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn, khoa học giữa đấu tranh vũ trang với chiến lược ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt, cương-nhu đúng lúc, Đảng và Bác Hồ đã dẫn dắt con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh, bước qua muôn đá tảng, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc trọn vẹn đến hôm nay.
Chỉ có độc lập, tự do và hòa bình mới đem lại cho đất nước, cho dân tộc và toàn thể Nhân dân Việt Nam một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Cảm thức độc lập ấy chỉ có thể hiện hữu khi những người được giao trọng trách gánh vác vận mệnh đất nước biết hành động vì sự phát triển đích thực của người dân, để “Lời thề độc lập” luôn là trách nhiệm, là danh dự của mỗi người Việt Nam, vì sự toàn vẹn của giang sơn Tổ quốc, vì quyền mưu cầu tự do, hạnh phúc của mọi người.