Phóng sự - Ký sự

Bí ẩn rừng rong

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Thế hệ nối tiếp thế hệ, khu rừng rong ẩn mình dưới đáy sông Gianh vẫn luôn là nguồn tài nguyên quý báu, nuôi dưỡng và bảo vệ cuộc sống của người dân nơi đây

Sông Gianh yên bình với làn nước trong xanh. Du khách đến đây ít ai biết rằng dưới đáy dòng nước lặng lẽ ấy lại tồn tại một khu rừng đặc biệt - rừng rong. Đây không chỉ là một hệ sinh thái phong phú mà còn là nơi cung cấp nguồn sống và sinh kế cho biết bao thế hệ cư dân sống ven đôi bờ.

Người dân ven sông Gianh ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình từ nhiều đời nay đã gắn bó mật thiết với khu rừng này, khai thác và bảo vệ như một phần không thể thiếu của cuộc sống.

Quà tặng của thiên nhiên

Nằm bên hữu ngạn sông Gianh, từ bao đời nay, người làng Thanh Châu, xã Châu Hóa sống nhờ vào rừng rong (người dân địa phương gọi là tông) dưới đáy sông.

Người dân làng Thanh Châu đi vớt rong từ rừng tông để nuôi cá lồng

Người dân làng Thanh Châu đi vớt rong từ rừng tông để nuôi cá lồng

Làng Thanh Châu hiện có hơn 150 hộ dân. Lưng làng tựa vào núi, mặt hướng ra sông. Cả làng chỉ có khoảng 2,4 ha đất canh tác nhờ vào các bãi bồi ven sông, trồng ngô đậu. Trước đây, người làng chủ yếu sống trên các thuyền nhỏ, dựa vào rừng rong để kiếm sống. Bởi vậy, làng còn có tên gọi khác là "xóm Tông". Thanh Châu nằm ở trung tâm vùng rong đã mọc thành "rừng" dưới lòng sông Gianh, đoạn từ xã Đồng Hóa đến Tiến Hóa, suốt chiều dài chừng 25 km.

Ẩn mình dưới rừng rong lại là một mỏ cá khổng lồ, bao đời nuôi sống các cư dân vạn chài trên sông. Một điều lạ là rong ở đây mọc rất nhanh nhưng khi lũ về thì biến mất. Cứ từ dịp sau Tết Nguyên đán đến mùa lũ, các loại rong mây, rong lá, rong nhún mọc xanh rì cả mặt sông. Bám vào chân rong là tôm cá, đủ loại, nước ngọt, nước lợ, đến cả trăm loài. Mùa nào thức ấy, cá nhiều như rong, luôn làm cư dân phấn khởi không thôi.

Trưởng thôn Thanh Châu là ông Nguyễn Văn Thông kể thời ông còn nhỏ, cá ở đoạn sông Gianh qua đây có thể xúc được. Dịp tháng 2, tháng 3 âm lịch là mùa cá mòi từ biển ngược sông Gianh qua đây. Dịp ấy rong mới mọc nhun nhún, nhiều đàn cá mòi kéo đến làm cả vùng rong sáng lóa. Có những buổi đánh lưới thu được cả tạ cá mòi, gỡ mỏi tay.

Người dân vớt rong trên sông Gianh

Người dân vớt rong trên sông Gianh

Những gia đình ở Thanh Châu thường rất đông con, mỗi nhà 7-8 người con và lớn lên đều nhờ cá. Trưởng thôn Nguyễn Văn Thông có 8 đứa con. Trưởng Ban Công tác mặt trận thôn là ông Mai Văn Cảnh có tận 9 đứa con. Hỏi các ông hồi xưa nghèo như thế thì nuôi con thế nào, ai cũng cười: "Nuôi bằng cá".

"Ngày ngày, xuống sông thu cá rồi vác cá đi đổi lấy gạo, sắn, khoai. Những năm đói kém, gánh cá đi đổi nhọc lắm. Rổ cá có khi đổi được lưng rổ khoai, còn gạo thì có khi chỉ được mấy lon. Nấu cháo cả nhà chục miệng ăn, cho có hơi bột" - ông Thông kể.

Người làng Thanh Châu thuở ấy sáng tạo ra cả trăm loại cháo cá: cháo cá củ chuối, cháo cá rau rừng, cháo rau khoai nước... Những món cháo "thượng thừa" ấy nay thất truyền, cũng bởi nguồn cá ngày càng khan hiếm, được con cá có người hỏi mua ngay. Các món rau củ ấy loại nào vừa miệng một chút cũng thành đặc sản, khó kiếm, như món củ rau má, kiếm được đủ nồi cháo chắc còng lưng.

Huyền thoại "sát cá"

Cá về cư ngụ ở Thanh Châu rất nhiều, nhiều người dân không thể nhớ hết tên từng loài cá đó. Nghề bắt cá ở đây cũng lạ, phổ biến nhất có lẽ là cái loòng khoòng mà người dân địa phương sáng tạo để bắt cá dưới rừng rong.

Ông Mai Văn Cảnh kể xưa dân làng Thanh Châu bủa lưới rồi cũng dùng cách gõ vào mạn thuyền để xua cá. Cách ấy hiệu quả kém, vì cá núp trong rừng rong, thấy động chúi xuống núp vào các bụi rong dày, gõ mỏi tay mà cá không chạy. Không biết ai nghĩ ra cách làm cái loòng khoòng, có lẽ nó sinh ra trong thời chiến tranh, bởi gắn với chiếc ca tút (vỏ) đạn pháo.

Nuôi cá lồng trên sông Gianh

Nuôi cá lồng trên sông Gianh

Ống ca tút bằng đồng, cho thêm vào đó 2 viên bi sắt, bịt kín, gắn vào đầu cây sào vẫn dùng để chống thuyền. Mỗi khi cây sào lao xuống nước, chạm đáy, chiếc ống đồng rung lên loòng khoòng, bởi vậy mới có cái tên nghe lạ lùng ấy. Tiếng âm rung truyền từ đáy sông. Cá bị đuổi từ gốc rong phải ngược ra mà mắc lưới.

Làm nghề cá ở xóm Thanh Châu đến độ "sát" phải kể đến cố Mai Văn Nguyên. Nếu cố Nguyên còn sống, năm nay cũng hơn 100 tuổi. Dân làng nể cái tài bắt cá mà ghép tên cố thành "Trạng Nguyên cá". Kỳ lạ ở chỗ cố Nguyên không bắt cá dưới nước mà bắt cá trên mặt nước.

Những người già ở làng Thanh Châu kể cố Nguyên làm cái dãy bằng tre trên sông, chắn ngang đường cá đi, dẫn luồng cá vào cuối dãy rồi nhảy ngược lên vào lưới cụ treo giữa không trung. Cá đủ sức nhảy phải là loại cá to, cố Nguyên thì nằm vắt chân trong lều, đợi lưới động đậy là ra nhặt cá.

Tài thế nhưng cố Nguyên chỉ hành nghề khi nhà hết gạo, cũng chỉ bắt mấy con đủ mua gạo ăn là thôi. Ai hỏi hay xin học nghề thì cố chỉ cười xòa, không bày, nói là mẹo ông Nguyên. Từ khi cố mất, nghề bắt cá của cố cũng thất truyền, chỉ còn lại giai thoại. Cố Nguyên có gần chục người con nhưng không ai biết cách bắt cá kỳ lạ này.

Nghề đánh cá ở làng Thanh Châu nay cũng còn vài người, cả ngày chơi, đột nhiên xách loòng khoòng ra sông về là có cá nhưng cỡ như cố Nguyên thì chẳng ai bằng được.

Vất vả sinh kế

Người làng Thanh Châu nay không ai còn sống trên thuyền nữa, đa số đã lên bờ xây nhà ở.

Cá sông ngày càng ít dần nên đa phần dân đi làm đủ nghề: đi rừng, vào miền Nam làm thuê, đi nước ngoài... và dần thì thoát ly khỏi rừng rong. Nếu tính cả xã Châu Hóa thì nay chỉ còn gần 100 hộ dân sống dựa vào rừng rong để nuôi cá lồng trên sông Gianh. Nghề nuôi cá lồng ở đây đã mang lại hiệu quả kinh tế, nuôi sống biết bao thế hệ cư dân nhưng cũng lắm rủi ro vì lũ lụt, nước mặn, giá cả bấp bênh.

Một đoạn sông Gianh nơi có rừng rong

Một đoạn sông Gianh nơi có rừng rong

Mỗi cái lồng được dân ở đây làm bằng tre hoặc ống nhựa, chi phí cũng xấp xỉ 10 triệu đồng. Thức ăn chủ yếu cho cá là rong được vớt từ dưới đáy sông Gianh. Có lẽ nhờ được nuôi bằng rong nên cá lồng sông Gianh nổi tiếng là ngon, thịt săn chắc, thơm. Đến mùa thu hoạch, nhiều thương lái đến đặt cọc tiền sẵn, rồi cứ thế mà bắt về. Dân nuôi cá lồng lúc túng thiếu cũng bắt cá bán "non" để có tiền trang trải cuộc sống.

Bà Nguyễn Thị Huề đang nuôi 4 lồng cá, chủ yếu là trắm cỏ, rô phi, lăng chấm. Mỗi ngày 2 bữa sáng và chiều, bà cùng chồng đi thuyền ra sông để vớt rong làm thức ăn cho cá, bất kể nắng mưa. Đây là nguồn thức ăn tự nhiên "khoái khẩu" của các loài cá nuôi lồng.

"Mặc dù mang lại hiệu quả kinh tế cao, song nghề nuôi cá lồng cũng lắm gian nan, vất vả, bấp bênh do phụ thuộc vào con nước. Mỗi mùa mưa lũ, hạn hán, chúng tôi phải kéo lồng cá đến vị trí an toàn, mất rất nhiều thời gian, công sức" - bà Huề tâm sự.

Ông Phan Huy Hoàng, Chủ tịch UBND xã Châu Hóa, cho biết khu rừng rong trên sông Gianh là một trong những nguồn thức ăn chính cho nhiều loài sinh vật thủy sinh, từ tôm, cá đến những loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhờ đó, khu rừng này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển nghề đánh bắt thủy sản truyền thống của người dân địa phương.

Khoảng 10 năm trở lại đây, tận dụng thức ăn từ rong rêu nên nghề nuôi cá lồng của người dân địa phương đã phát triển, chủ yếu ở 2 làng Thanh Châu và Kinh Châu, hiện có tổng 95 lồng cá trên sông Gianh. Qua bao thế hệ, khu rừng rong này là tài sản thiên nhiên vô giá, nuôi dưỡng, tạo sinh kế và bảo vệ cuộc sống của người dân nơi đây.

"Cá lồng ở đây được khách hàng đánh giá cao về độ ngon nhưng việc thực hiện các chuỗi liên kết nuôi và tiêu thụ sản phẩm chưa được triển khai nên bà con phải tự lo đầu ra của sản phẩm, giá cả còn bấp bênh. Việc đầu tư lồng nuôi cá khá tốn kém, cộng thêm chi phí thức ăn, cá giống… nên số hộ dân tham gia nuôi còn ít, thậm chí giảm so với vài năm trước. Bên cạnh đó, cá thường mắc một số bệnh nhưng đến nay vẫn chưa có thuốc đặc trị khiến người nuôi lo lắng" - ông Hoàng chia sẻ.

Đẩy mạnh nghề nuôi cá lồng

Ông Cao Vũ Đăng, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tuyên Hóa, cho biết để giúp bà con nuôi cá lồng trên sông Gianh đạt hiệu quả, huyện đã tập huấn kiến thức nuôi trồng thủy sản nhằm mở rộng quy mô nuôi, góp phần giảm nghèo; khuyến khích và hỗ trợ người dân kinh phí để mua con giống, làm lồng nuôi nhằm mở rộng quy mô. Đơn vị cũng thường xuyên cử cán bộ về những nơi bà con nuôi cá lồng để kiểm tra độ mặn của nước, tuyên truyền, hướng dẫn người dân thường xuyên theo dõi thời tiết để có phương án bảo vệ lồng nuôi cá...

Theo Bài và ảnh: HOÀNG PHÚC (NLĐO)

Có thể bạn quan tâm