Phóng sự - Ký sự

Hoa nở thắm cồn Phó Ba

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Bài học đầu tiên của trẻ trên cồn Phó Ba không phải là chữ, mà là nhận biết dòng sông sóng dữ, sóng dồn. Muốn vậy, giáo viên phải học ở phụ huynh và tích góp kinh nghiệm thành bài dạy.
Cồn Phó Ba đơn côi giữa sông Hậu, đoạn chảy qua TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. Cồn từng có tên nữa là "4 không" vì một thời không có đường, điện, trạm xá, nước sạch; nay thì chỉ còn "2 không" là không đường, không trạm xá. Đêm đêm, từ TP nhìn sang cồn, người ta chỉ thấy lốm đốm sáng như những ngọn đèn câu lênh đênh, hiu hắt.
Không nỡ bỏ tụi nhỏ

Người dân trên cồn giải thích xưa có vị điền chủ làm chức phó ký, con thứ ba, sang đây khai hoang lập làng nên dân quen gọi là ông Phó Ba và lấy tên ông đặt cho cồn. Nay thì cồn có tên gọi hành chính là ấp Mỹ Thạnh, thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, TP Long Xuyên, với 298 hộ, 1.243 nhân khẩu. Mỗi năm, ấp chỉ có khoảng 20 học sinh học hết lớp 5, chuyển qua Long Xuyên học tiếp.

Một phía cồn Phó Ba
Một phía cồn Phó Ba
Vậy nên, tôi đã bất ngờ khi biết cồn có một ngôi trường từ rất lâu. Càng ngạc nhiên hơn nữa khi tôi biết 5 lớp học của trường được duy trì bằng nhiệt huyết của 5 cô giáo.
Cô Nguyễn Thị Nguyệt, giáo viên Trường Tiểu học Nguyễn Hữu Cảnh (điểm phụ), là người được dân ở đây nhắc đến như một cô tiên trong chuyện cổ tích của trẻ xóm cồn. "Bọn trẻ mến cô như người mẹ" - một đồng nghiệp của cô Nguyệt cho biết. Cô Nguyệt cười, giải thích: "Cũng vì tụi nhỏ mến như người mẹ nên mình không nỡ lòng bỏ chúng mà đi".
Một tiết sinh hoạt của học sinh trên cồn Phó Ba
Một tiết sinh hoạt của học sinh trên cồn Phó Ba
Năm 1990, cô Nguyệt được điều sang cồn dạy học. Cô kể lúc ấy, đời sống giáo viên đã vất vả nhưng sang cồn thì khó khăn còn gấp bội. Nghe điều động sang cồn, giáo viên nào cũng sợ. Cô cũng từng nghĩ sẽ bỏ dạy nếu bị điều sang Phó Ba. Nhưng rồi, cơ duyên đã gắn bó cô sâu đậm với cồn.
Những năm đầu sang cồn, hằng ngày, cô phải đi sớm đến bến sông gửi xe đạp, chờ đò rồi lênh đênh hơn 15 phút để đến lớp. Sông Hậu mùa gió chướng, sóng lưỡi búa liếm thân xuồng không ít lần làm cô nản chí, lại nghĩ đến chuyện bỏ dạy. Nhưng khi đến lớp thì cô vui hẳn khi những đứa học trò chất phác, thật thà nói: "Cô đừng sợ sóng lưỡi búa, ngày nào tụi con cũng ra bến sông đón cô. Sóng đánh chìm xuồng thì tụi con lội ra vớt cô vô bờ liền".
Có lần cô Nguyệt nản lòng, vắng hai ngày, đến ngày thứ ba thì sang trường để chia tay lớp học. Khi đò còn ở giữa sông, cô đã nghe tiếng tụi nhỏ reo trên bờ. Chúng mừng khôn tả, quây quần bên cô khi đò cập bến, rồi tíu tít hỏi cô có sao không, bệnh hay sao mà không đến lớp...
"Tụi nhỏ như vậy làm sao mình nỡ bỏ lớp được" - cô Nguyệt xúc động. Cô cho biết vào mùa nước lớn, đám trẻ lội từ đầu cồn đến lớp chỉ còn một nửa, nửa còn lại bỏ cuộc vì con nước quá hung hăng. Vì vậy, cô mới tìm cách dựng một căn nhà nhỏ ở đầu cồn để hằng ngày dắt lũ trẻ từ đầu cồn đến lớp. Đi đến đâu thì gọi tụi nhỏ đến đó. Có giáo viên dắt đi học, lại đến tận nhà gọi thì các em sao nỡ bỏ học. Giờ thì nhiều khi trong đêm, có em còn đem vở đến nhà cô gõ cửa hỏi cách giải bài tập. Vậy là cô phải giảng bài cho các em đến khi nào hiểu mới thôi, rồi lại đốt đèn đưa học trò về đến nhà mới yên tâm.
Ngồi nói chuyện với cô Nguyệt trong giờ chơi của một buổi cuối năm học, tôi nhìn ra sân. Đám trẻ nô đùa hồn nhiên. Học sinh trên cồn không có đồng phục. Mỗi em một bộ đồ thể dục khác nhau, khác màu và khác cả tên trường.
Theo cô Huỳnh Lương Thị Ngọc Dung, phụ trách lớp 5, đa phần phụ huynh ở đây làm nghề giăng câu bắt cá, đưa đò thuê hoặc sang chợ Long Xuyên bốc vác. Ngày ba bữa là cả nỗi lo, lấy đâu ra tiền mua đồng phục cho con. Các cô vẫn thường sang TP Long Xuyên, đến từng trường học xin quần áo cũ của học sinh mang về cồn cho các em. Có em khi nhận đồ cũ liền đưa lên mũi ngửi rồi tấm tắc khen: "Các bạn bên phố mặc áo thơm ghê, không hôi sình như tụi mình".
Sách vở cũng vậy, các cô xin từ các trường bên TP Long Xuyên. Các em học xong thì tặng lại cho cô để dành cho lớp kế tiếp. Cứ như vậy, một bộ sách giáo khoa có khi học đến mười mấy năm trời, qua mười mấy lượt học sinh.
Kèm từng em một
Trời đứng ngọ. Nước ròng. Bến sông trơ những gốc cây sần sùi. Bãi đá lởm chởm. Nghĩ đến cảnh những "dáng áo dài" các cô hằng ngày vượt qua bãi đá, bãi cây để lên bờ, tôi xúc động.
Vậy nhưng, cô Võ Thị Cẩm Cuốn nói: "Chưa đâu! Chưa khó khăn bằng vào mùa nước nổi, nước dâng cao, phòng học lé đé nước. Có năm ngập gần đến mặt ghế. Cô trò phải kê ghế lên cao, có lúc học trò phải ngồi chồm hổm mà học. Để đến trường, các cô và phụ huynh phải góp tiền thuê đò, đến từng nhà đưa rước học sinh. Trường hỗ trợ một phần, một phần là phụ huynh đưa đò lấy giá rẻ. Cho nên, bài học đầu tiên của trẻ trên cồn không phải là học chữ mà là nhận biết dòng sông nước ròng, nước kém; biết sóng dữ, sóng dồn; biết đất răn, đất lở. Muốn vậy, giáo viên phải học ở nhiều phụ huynh và tích góp kinh nghiệm thành bài dạy không có trong chương trình giáo khoa.
Hằng ngày, các cô giáo vẫn sang cồn trên những chuyến đò như thế này
Hằng ngày, các cô giáo vẫn sang cồn trên những chuyến đò như thế này
Cũng như cô Nguyệt, những cô giáo khác trên cồn Phó Ba đều vì yêu nghề, thương trẻ nên bám trụ nơi này. Cô Trần Thị Bích Tuyền, giáo viên trẻ nhất của trường, dạy lớp 1. Cô kể học sinh ở cồn học chữ chậm hơn học sinh trên phố vì ít có điều kiện học trước căn bản con chữ. Vì vậy, khi vào dạy đọc, viết, giáo viên phải kèm từng em một rất vất vả. Lớp 1 là lớp học đầu đời nên giáo viên phải tạo mọi điều kiện để các em không chán học và phải đọc, viết được trong 9 tháng học ở trường. Có những học sinh chậm đọc, chậm viết, các cô phải tiếp tục đến cồn dạy kèm trong 3 tháng hè để khi lên lớp 2, các em có thể theo kịp chương trình.
Tôi hỏi có khi nào thấy nản nghề dạy ở cồn hay không, cô Tuyền trả lời ngay: "Có, nhưng thấy cha mẹ các em không biết chữ, phải vật lộn với cuộc sống khó khăn, rồi nhìn lại học trò, tôi thấy mình không thể dứt bỏ xứ cồn này". Chữ "nhưng" của cô làm tôi xúc động. Vậy là cô vượt qua những nắng mưa trên con đò ngược sóng, vẫn hằng ngày sang cồn cầm tay từng em viết nên con chữ. Cô Tuyền bảo dạy cho các em con chữ để đọc được viết được, kể như đã giúp qua được cửa ải tối tăm của mù chữ, lòng cô mới nhẹ nhàng được. Nghe cô nói, tôi chợt thấy trước mắt cánh cửa tương lai của các em mở ra. Những bông hoa mang con chữ i tờ rộ nở. Hoa trổ trên tấm lòng những nữ giáo viên ở đất cồn nghèo khó này.
Khi được hỏi về các khoản phí học sinh đóng đủ hay không, cô Nguyễn Thị Kim Cương, giáo viên dạy lớp 4, cười: "Đủ cả chứ nhưng là trên sổ sách. Cứ đầu năm học, khoảng 1/3 lớp có phụ huynh đóng tiền bảo hiểm theo từng tháng. Số còn lại, các cô ứng lương rồi thu lại hằng ngày, mỗi ngày 2.000-5.000 đồng. Em nào khó khăn quá thì các cô cho luôn". Theo cô Cương, "mình thương tụi nhỏ, tổ nghề thương mình nên phù hộ hằng ngày sang sông mấy lần, sóng gió bão bùng có lớn cỡ nào thì cũng bình an vô sự".
Giờ ra chơi của trẻ trên cồn Phó Ba
Giờ ra chơi của trẻ trên cồn Phó Ba
Cô Ngọc Dung, dạy lớp 5, cho biết điểm trường cách xa điểm chính, ngăn cách sông và đường bộ nên việc tập trung học sinh về điểm chính là rất khó. Vì thế, nhiều học sinh trên cồn hoàn toàn không biết ngày lễ khai giảng và tổng kết ra sao.
"Có năm, đề thi cuối kỳ yêu cầu miêu tả buổi lễ khai trường. Chấm bài của các em mà lòng tôi đau nhói. Đau không phải vì các em làm bài điểm thấp mà vì sự thiệt thòi khách quan ấy" - cô Dung nhớ lại. Vậy là các cô phải dùng nhiều biện pháp để miêu tả, in nhiều hình ảnh trực quan, có khi phải tổ chức diễn mô phỏng lại cảnh buổi khai giảng để các em có thể nắm được bài.
Như ngọn đèn bão
Tôi được các cô mời ở lại dùng bữa cơm trưa đạm bạc với mớ rau tự mọc ở sau trường, một mớ cá lòng tong kho tiêu. Cô Dung cho biết những thứ này là của một phụ huynh đem đến tận lớp cho các cô. Mấy cái bàn học kê lại làm bàn ăn, các cô cũng sẽ kê ghế để nghỉ chờ tiết dạy buổi chiều.
Người chèo đò chở chúng tôi sang cồn ví những cô giáo này như những ngọn đèn bão trên sông vào ban đêm. Đấy là những ngọn đèn nhỏ nhưng gió lớn cũng không tắt, soi sáng những nẻo đường, đem lại hơi ấm, niềm tin cho xóm cồn giữa dòng sông Hậu. 

Tụi nhỏ hồn nhiên như cây cỏ trên cồn, chỉ nghe thôi là cảm động lắm rồi, làm sao bỏ đi cho được. Dù khó khăn nhưng học trò ngoan và chịu học là chúng tôi vui mừng còn hơn được thêm mấy bậc lương" - cô Nguyễn Thị Nguyệt bày tỏ.

Bất kể nắng mưa
Không chỉ 5 giáo viên, điểm trường ở cồn Phó Ba còn có một bảo vệ cũng là nữ. Đó là cô Nguyễn Thị Hiền.
Cô Hiền kể trước đây, có lúc cồn đông dân nên có một trường tiểu học hẳn hoi mang tên Lý Tự Trọng. Chồng cô là hiệu trưởng trường này. Ban đầu, cô theo chồng sang cồn để cất nhà sinh sống. Sau này, đất lở đứt đuôi cồn, phải dời nhà sang chợ. Chồng về điểm trường khác nhưng cô tình nguyện ở lại đây làm bảo vệ.
"Mình ở đây với tụi nhỏ riết, mến tay mến chân, giờ bỏ đi thì vừa tội vừa thương. Tôi về phố mấy lần nhưng không quen, lại nhớ mấy đứa nhỏ trên cồn. Tôi khóc... Ông xã khuyên và con cũng ủng hộ nên tôi quay lại đây" - cô Hiền bộc bạch.
Vậy là hơn 10 năm qua, cô thầm lặng ở trường này bất kể nắng mưa hay tháng hè vắng lặng.
Lê Quang Trạng (NLĐO)  

Có thể bạn quan tâm