Thị xã An Khê đón tôi bằng cơn mưa nặng hạt trong một buổi chiều muộn. Lần theo chỉ dẫn, tôi tìm đến ngôi nhà số 91 Hoàng Văn Thụ (tổ 4, phường Tây Sơn) để gặp ông Nguyễn Minh Đồng-người “thợ chiếu bóng” của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy trong những năm đầu thập niên 70 thế kỷ trước. Nở nụ cười tươi đón khách, ông Đồng hồ hởi: “Để bác đưa cháu xuống gặp đồng chí Biện Ngọc Kinh. Ông ấy và bác là đồng đội, gắn bó với nhau suốt những năm tháng làm nhiệm vụ chiếu bóng ở Căn cứ địa cách mạng Khu 10 tới tận bây giờ đấy”. Nhìn dáng vẻ nhanh nhẹn đầy dứt khoát của ông, tôi không nghĩ ông đã ngoài thất thập.
Ông Biện Ngọc Kinh (bìa trái) và ông Nguyễn Minh Đồng (ở giữa) cùng đồng đội chụp ảnh lưu niệm trước Bia di tích lịch sử Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy tại làng Tăng Lăng, xã Krong, huyện Kbang (ảnh nhân vật cung cấp). |
Ký ức khó quên
Lật giở từng trang ký ức, ông Đồng kể, ông là một người con của vùng quê Phước Hưng (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định). Năm 1966, để thoát khỏi cuộc truy quét của địch, cả gia đình ông lên An Khê định cư. 4 năm sau, trong lần vào vùng rừng Ya Hội đốn củi, ông vô tình gặp một số cán bộ cách mạng của Khu 8. Và từ đây, bước ngoặt mới trong cuộc đời đã đến với ông.
“Mấy đồng chí hỏi tôi một vài câu về thân thế, gia cảnh rồi đưa tôi vào khu căn cứ ở sâu trong rừng. Ngoài tôi còn có hơn chục thanh niên khác. Tất cả chúng tôi được phổ biến về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; được học tập nâng cao nhận thức và lý tưởng cách mạng trong vòng 10 ngày. Đợt học kết thúc, cán bộ Khu 8 đưa ra câu hỏi: “Các đồng chí thích mãi làm nô lệ hay giải phóng khỏi ách nô lệ?” và cho chúng tôi toàn ý lựa chọn ở lại hay trở về với gia đình. Tôi đã trả lời câu hỏi trên bằng cách tự nguyện viết đơn gia nhập cách mạng”-ông Đồng nhắc nhớ.
Cuối năm 1970, ông Đồng vào Căn cứ địa cách mạng Khu 10 (xã Krong, huyện Kbang) và được phân công về Đội chiếu bóng thuộc Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy. Nhiệm vụ của ông lúc bấy giờ là phụ chạy máy chiếu phục vụ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh và chiếu phim điện ảnh, phim tư liệu phục vụ đời sống tinh thần cho người dân vùng căn cứ. “Ban ngày, chúng tôi trỉa lúa, trồng mì… Đêm xuống, mấy anh em lại hì hục vác máy đi chiếu phim phục vụ bà con; qua đó, góp phần chuyển tải quan điểm, chủ trương cách mạng của Đảng ta đến với người dân; đồng thời, biến những thước phim ấy trở thành vũ khí sắc bén trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm trên mặt trận văn hóa tư tưởng”-ông Đồng chia sẻ.
Ông Biện Ngọc Kinh (bìa trái) và ông Nguyễn Minh Đồng cùng ôn lại kỷ niệm một thời làm chiếu bóng ở căn cứ khu 10. Ảnh: Mộc Trà |
Ngồi cạnh bên, ông Biện Ngọc Kinh cũng bồi hồi khi nhắc về cơ duyên đến với nghề chiếu bóng. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở Hoài Mỹ (thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định). Từ nhỏ, ông Kinh đã tích cực tham gia hoạt động du kích tại địa phương. Năm 1972, toàn địa bàn Hoài Nhơn được giải phóng. Noi gương anh trai, ông Kinh thoát ly lên Gia Lai tiếp tục hoạt động cách mạng. Ngoài ông, xã Hoài Mỹ còn có 4 thanh niên khác cùng đi. “Sau 15 ngày băng rừng, vượt suối, chúng tôi được đưa đến căn cứ Krong. Lúc đầu, tôi được phân công quay máy phát điện để vận hành hệ thống thông tin liên lạc cho Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy; 3 tháng sau thì chuyển sang công tác tại Đội chiếu bóng với nhiệm vụ chủ yếu là vận chuyển, lắp ráp hệ thống máy chiếu, máy nổ phục vụ chiếu phim. Tại đây, tôi đã gặp anh Đồng và cả 2 dần trở nên thân thiết”-ông Kinh kể.
Với tâm thế là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa nên ông Đồng và ông Kinh luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ, xông pha đến những nơi khó khăn nhất để chiếu phim phục vụ đồng bào, đồng chí. Những bộ phim tư liệu như: Đường ra trận, Anh bộ đội xe tăng, Kim Đồng, Điện Biên Phủ, Việt Nam trên đường thắng lợi… và một số bộ phim của điện ảnh cách mạng Việt Nam thời bấy giờ như: Chung một dòng sông, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Nổi gió, Cánh đồng hoang, Bao giờ cho đến tháng mười… đã trở thành món ăn tinh thần quý giá cho rất nhiều cán bộ, chiến sĩ và người dân vùng căn cứ cách mạng; góp phần củng cố niềm tin vào con đường tất thắng của cách mạng miền Nam.
“Kỷ niệm nhớ nhất của tôi là lần chiếu phim phục vụ cán bộ, người dân xã Sơn Lang khai thác, vận chuyển gỗ ra miền Bắc xây Lăng Bác Hồ vào mùa xuân năm 1974. Cứ 5 giờ chiều là chúng tôi bắc loa mời bà con tới xem phim. Mỗi bộ phim chạy từ 1 tiếng rưỡi đến 2 tiếng đồng hồ, vậy mà ai cũng chăm chú xem từ đầu đến hết. Thời gian còn lại, đội văn công tiếp tục biểu diễn văn nghệ phục vụ người dân. Cứ thế, suốt 2 tháng trời, hàng chục bộ phim đã được chiếu, thu hút đông đảo người xem vào mỗi tối. Tôi cùng đồng đội sau đó rất vinh dự khi được Khu ủy Khu 5 tặng giấy khen vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch đặc biệt ý nghĩa này”-ông Kinh tự hào khoe.
Ấm tình đồng đội
Mặc dù gắn bó với Căn cứ địa cách mạng Khu 10 không nhiều, song với ông Đồng và ông Kinh, đây là khoảng thời gian đầy ắp những kỷ niệm đáng nhớ. Hai con người xa lạ đã gặp nhau ở mảnh đất Krong và cùng viết nên câu chuyện đẹp về tình đồng chí, đồng đội từ thời chiến cho đến tận thời bình.
Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp anh Kinh là vóc dáng anh quá nhỏ bé so với độ tuổi 23 của mình. Vậy nên, cứ hễ làm việc nặng, tôi đều giúp anh vài phần, mặc dù tinh thần làm việc của anh rất nghiêm túc và chưa bao giờ nhờ vả đồng đội. Anh cũng là người rất biết quan tâm người khác. Nhờ anh tận tình chăm sóc mà tôi đã vượt qua được cơn sốt rét thập tử nhất sinh hồi năm 1972”-ông Đồng tâm sự.
Ngoài tham gia Đội chiếu bóng, ông Đồng và ông Kinh còn thường xuyên đồng hành trong những chuyến xuống đồng bằng nhận hàng hóa, lương thực, thực phẩm về cho đơn vị. Mỗi chuyến đi kéo dài từ 10 ngày đến nửa tháng. Có đợt suôn sẻ, song nhiều khi phải đối mặt với vô vàn hiểm nguy. Ông Đồng hồi tưởng: “Chuyến đi khó quên nhất của chúng tôi có lẽ là đợt xuống Hoài Nhơn gùi hàng vào cuối năm 1973. Khi đến Tam Quan Bắc, anh Kinh tranh thủ ghé về thăm nhà, còn tôi và anh Nguyễn Hữu Thức-quay phim kiêm chụp ảnh của Ban Tuyên huấn-nghỉ lại đây. Khoảng 11 giờ đêm, chúng tôi đang chuẩn bị ngủ thì địch pháo kích. Tôi và anh Thức bị thương ở vai và gót chân phải, được du kích xã Tam Quan Bắc đưa lên trạm xá cấp cứu”.
Bộ đội và Nhân dân khu căn cứ tỉnh vận chuyển gỗ ra miền Bắc để xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu |
“Đồng đội bị thương mà tôi nào hay biết gì”-ông Kinh tiếp lời-”Mãi tới sáng hôm sau, tôi ra đến điểm dừng chân để tiếp tục hành trình thì mới giật mình khi chứng kiến khung cảnh tan hoang. Biết tin đồng đội bị thương, lòng tôi như lửa đốt nhưng vì nhiệm vụ chưa hoàn thành, tôi phải tiếp tục lên đường. Tôi gùi luôn phần hàng thiết yếu của Đồng, một mình lên lại căn cứ để báo cáo tình hình cho cơ quan. Tuy nhiên, vừa đi được một đoạn, tôi lại không may trúng pháo chụp của địch và bị thương nhẹ ở vai. Sau khi tự sơ cứu, tôi cố gắng mang hàng về cho kịp kế hoạch. Hôm ấy đã là 28 Tết và Đồng phải đón năm mới xa đơn vị”.
Đầu năm 1975, ông Đồng được cấp trên phân công về nằm vùng nắm tình hình tại địa bàn xã Song An (An Khê), còn ông Kinh được cử đi học lớp sơ cấp kỹ thuật máy chiếu ở Trà My (tỉnh Quảng Nam). Hai người chia tay và động viên nhau cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, hẹn ngày gặp lại khi non sông thống nhất. Tháng 3-1975, ông Đồng cùng quân dân địa phương tham gia tiếp quản địa bàn, ổn định tình hình An Khê sau giải phóng; sau đó, lần lượt về công tác tại xã Song An, Huyện Đoàn An Khê rồi Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện. Ông cũng tham gia chuẩn bị các điều kiện để tiến hành chia tách An Khê, thành lập huyện Kông Chro vào năm 1988. Sau đó, vì sức khỏe không cho phép, ông Đồng xin nghỉ chế độ và chỉ tham gia sinh hoạt Hội Cựu chiến binh ở cơ sở.
Về phần ông Kinh, sau khi hoàn thành khóa học trở về, ông tiếp tục gắn bó với nghề chiếu bóng, rong ruổi trên khắp các miền quê, buôn làng trong tỉnh để chiếu phim. Những bộ phim liên quan đến chiến tranh được tiết giảm, thay vào đó là các bộ phim lan tỏa niềm vui chiến thắng và cổ vũ tinh thần xây dựng, kiến thiết quê hương. Đầu năm 1976, Đội chiếu bóng tách khỏi Ban Tuyên huấn để thành lập Quốc doanh chiếu bóng (thuộc Ty Văn hóa-Thông tin). Ở Pleiku, các rạp chiếu bóng tư nhân trước giải phóng như: Diệp Kính, Diên Hồng, Thăng Long… được chính quyền cách mạng tiếp quản và đổi tên thành Nhân Dân, Thống Nhất; riêng rạp Thăng Long chuyển thành Nhà Văn hóa tỉnh, nay là Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San. “10 đội chiếu bóng ngoài phục vụ tại các rạp còn đóng quân tại các địa phương để đi chiếu phim lưu động. Tôi là Đội trưởng đội số 3, thực hiện nhiệm vụ tại rạp chiếu bóng An Khê. Khi rạp giải thể, tôi chuyển sang công tác tại Phòng Văn hóa-Thông tin thị xã đến năm 2004 thì nghỉ hưu”-ông Kinh cho hay.
Vì ở cùng địa phương nên ông Kinh và ông Đồng đã nhanh chóng tái ngộ sau ngày thống nhất. Hai ông cũng kết nối thành công với những đồng nghiệp chiếu bóng một thời để gặp gỡ hay tổ chức những chuyến đi về thăm lại chiến trường xưa. Và mỗi dịp như thế, bao xúc cảm của một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết cứ thế ùa về trong từng ánh mắt, nụ cười và trong tình đồng chí, đồng đội thân thương, ấm áp.