(GLO)- Khi nhận định, đánh giá tình hình lực lượng địch ở miền Nam cuối năm 1974, đầu năm 1975, Bộ Chính trị cho rằng, từ khi Mỹ rút quân đội viễn chinh khỏi miền Nam, các lực lượng quân đội Sài Gòn đã suy yếu, tình hình có lợi cho cách mạng để quân và dân mở các chiến dịch lớn tiến công giải phóng từng phần tiến đến giải phóng toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Ảnh: Tư Liệu |
Tây Nguyên là điểm yếu nhất của địch nhưng lại là địa bàn chiến lược quan trọng mà cả ta và địch đều chú trọng. Để mở màn chiến dịch Tây Nguyên, vấn đề đặt ra là phải chọn huyệt đạo để đánh trúng, nhằm làm cho toàn bộ cơ thể của nó bị tê liệt, ta mới làm chủ được tình hình, đưa địch vào thế bị động. Xét thấy Buôn Ma Thuột-Đak Lak, lực lượng địch mỏng, dễ bị cô lập, viện binh khó cơ động kịp thời, chúng ta quyết tâm chọc thủng tuyến phòng thủ này để làm lung lay toàn bộ các khu vực phòng thủ khác của địch ở Tây Nguyên. Trong khi đó, lực lượng chủ lực của Quân đoàn II Ngụy đang còn loay hoay ở Bắc Tây Nguyên với những tin tình báo không mấy chính xác về lực lượng Quân Giải phóng, khiến cho chúng đưa ra những nhận định bâng quơ, rằng Việt Cộng có thể tấn công vào Pleiku và Kon Tum nên ra sức đưa các đội quân chủ lực chốt chặn những điểm xung yếu trong khu vực. Khi đi thị sát các mặt trận về, cuối cùng tướng Phú-Tư lệnh Quân đoàn II, trong giờ phút quan trọng vẫn không quyết định đưa Sư đoàn 23 về trấn giữ thị xã Buôn Ma Thuột trước khi ta chuẩn bị tiến công mở màn chiến dịch. Điều đó, có một phần công lao rất lớn của các đơn vị và địa phương thực hiện sách lược nghi binh, kéo căng địch ra từng phần nhỏ, giam chân chúng ở những điểm phụ cận. Trong binh pháp của cha ông ta, cho rằng, bí mật, nghi binh giỏi là thành công một nửa, vì làm cho địch mất tập trung vào điểm chính, không dự đoán được chiến thuật, sức mạnh của ta như thế nào để có kế sách phòng thủ, chống lại nên hoàn toàn bị động và dễ bị thất thủ nếu ta tấn công. Dùng kế nghi binh ấy trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, ta đã thành công khi cho các lực lượng quân đội, dân quân mở đường, kéo pháo ra vào ở các điểm trọng yếu Bắc Tây Nguyên khiến địch lầm tưởng Quân Giải phóng sẽ đánh mạnh vào khu vực này.
Trong tài liệu lịch sử cách mạng, chúng ta đã thừa nhận các hoạt động nghi binh ở vùng Bắc Tây Nguyên diễn ra từ cuối năm 1974, khi mà Trung đoàn 7 Công binh 559 mở thông đường 220 nối đường 14 Bắc Võ Định với đường 19 gần đèo Mang Yang sau khi vòng qua Đông Bắc thị xã Kon Tum. Các Sư đoàn 10, Sư đoàn 320, những đơn vị mà địch theo dõi thường xuyên sự di chuyển, cũng đã để lại một bộ phận lực lượng hoạt động ở đường 19 phía Tây Pleiku; các hệ thống điện đài được cài cắm lại thường phát đi những mệnh lệnh giả, các trận địa pháo giả cũng giương nòng như sẵn sàng chiến đấu. Nhân dân trong các vùng giải phóng làm cờ hoa chuẩn bị cho ngày mừng chiến thắng; đồng thời phao tin vào các vùng dân cư đô thị là Quân Giải phóng chuẩn bị tiến công vào thị xã Pleiku, Kon Tum…
Từ đầu tháng 3-1975, một số đơn vị bộ đội chủ lực và địa phương của ta liên tục tấn công vào một số cứ điểm then chốt trên đường 19, đường 14, đường 21 khiến địch phải điều động các lực lượng quân chủ lực để đối phó. Ý đồ căng mỏng lực lượng địch ra từng mảng, tạo thế để Quân Giải phóng dễ bề tiếp cận trận địa chính trên hướng Buôn Ma Thuột. Đến ngày 8-3-1975, các tỉnh Tây Nguyên cơ bản đã bị ta bao vây, cô lập với vùng Duyên hải miền Trung về đường bộ, chỉ riêng con đường 7 đã bị hư hỏng nặng, chúng ta chưa để mắt đến. Thế trận Tây Nguyên đã được sắp đặt một cách cẩn thận với các phương án tác chiến ưu thế được bày sẵn.
Khi đã lâm thế, quân địch đã lúng túng, nhận định sai lầm nên chúng để mất Buôn Ma Thuột chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ trong trận mở màn của quân ta và buộc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn cùng các cố vấn Mỹ đưa ra những quyết sách có lợi cho cách mạng miền Nam bấy giờ. Kế hoạch tái chiếm Buôn Ma Thuột thất bại, Tổng thống Thiệu vội vã đưa ra quyết định bỏ Tây Nguyên, rút toàn bộ Quân đoàn II về cố thủ vùng Duyên hải miền Trung, biến cuộc di tản thành cuộc tháo chạy tán loạn. Thừa thắng xông lên, quân và dân Tây Nguyên đã nhất tề nổi dậy giải phóng quê hương, tạo nên một khí thế chưa từng có trong lịch sử. Mất Tây Nguyên, quân đội Sài Gòn hoang mang cực độ, nhân dân các tỉnh đồng bằng bắt đầu vùng lên phối hợp cùng với các cánh quân từ Tây Nguyên tiến về như thác đổ và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử nổ ra đã nhanh chóng làm sụp đổ hoàn toàn chế độ Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn kéo dài suốt 20 năm.
Chỉ với một đòn “tử huyệt” ở Tây Nguyên bằng lối nghi binh khôn khéo đã kéo căng quân địch ra và hạ cú nốc ao chính xác làm tan rã cả một hệ thống binh hùng tướng mạnh thuộc chế độ Sài Gòn. “Một ngày bằng hai mươi năm” là vậy!
Hoàng Linh Việt