Phóng sự - Ký sự

Thanh xuân nơi vùng cao

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Bỏ phố, bỏ những cơ hội tốt, hai cô giáo trẻ Riáh Uối và Trà Thị Thu đã tình nguyện gắn tuổi thanh xuân của mình nơi đỉnh núi Ngọc Linh, dùng tâm sức đưa con chữ đến gần hơn với những trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số.



1.



Trường Mẫu giáo Phong Lan thuộc điểm Trường Phổ thông Dân tộc bán trú tiểu học Trà Tập tọa lạc nóc Tắk Pổ (xã Trà Tập, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam), nơi có khoảng đất rộng trống trải và những thân cau yên bình. Nơi đó, mỗi sáng chiều lại rộn ràng tiếng học bài ê a của 34 học sinh bậc mẫu giáo, nhóm trình độ 1 (lớp 1) và nhóm trình độ 2 (lớp 2).

Gần một năm nay, cô giáo trẻ Riáh Uối (23 tuổi) về đứng chân ở đây cùng các em học sinh đồng bào Ca Dong. Là người Cơ Tu sinh ra và lớn lên tại xã Chơ Chun, huyện Nam Giang, Quảng Nam, cô gái trẻ Riáh Uối đã tình nguyện vượt hơn 200km để đến điểm trường trên nóc Tắk Pổ. “Tôi là người Cơ Tu nên cảm nhận được những khó khăn mà trẻ em đồng bào thiểu số gặp phải, nhất là trong việc học tập. Ngay từ nhỏ, mình đã mong muốn làm cô giáo để mang cái chữ truyền đạt lại cho các em”, cô Riáh Uối chia sẻ. Do điều kiện đường sá đi lại khó khăn, thi khoảng một tháng Riáh Uối mới về nhà một lần, cũng có khi 2 tháng mới về.

Năm học mới này, cô Riáh Uối được phân công dạy mầm non tại điểm Trường Mẫu giáo Phong Lan. Nói là điểm trường nhưng đây chỉ là một ngôi nhà nhỏ được ngăn thành 2 lớp học: mẫu giáo và lớp ghép 1, 2. Vì độ tuổi khác nhau nên việc dạy cũng khác nhau; những bé 3 tuổi chủ yếu vui chơi, làm quen với việc đi học và tập phát âm cho đúng (chuyển từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng Việt); những em 4 tuổi thì học đọc chữ số, tìm biết đồ chơi ở các góc; những em 5 tuổi học chữ cái, số từ 0 - 10, tập cầm bút…

Vì mới lên vùng cao dạy hợp đồng năm thứ 2 nên thu nhập của cô Riáh Uối chỉ khoảng hơn 3 triệu đồng/tháng, nhưng điều đó không làm cô giáo trẻ nghĩ ngợi nhiều. Với cô Riáh Uối, được đứng lớp, được dạy dỗ cho các em là thỏa niềm mơ ước tuổi trẻ. “Tôi biết vẫn còn rất nhiều điểm trường, nhiều giáo viên còn khó khăn hơn. Chỉ cần thấy các em biết đọc biết viết, vui vẻ đến trường là tôi hạnh phúc rồi”, cô Riáh Uối tâm sự.  

2.

Cô Trà Thị Thu khá xinh xắn. Mới gặp, không ai nghĩ cô có thể gắn bó với những khổ cực của núi rừng. Quê ở xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Sư phạm tiểu học, tháng 10-2014, Trà Thị Thu tình nguyện lên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú tiểu học Trà Tập dạy học. 5 năm ở Trà Tập cũng là chừng ấy thời gian cô Thu gắn bó với hàng trăm học sinh tại các nóc nơi đây. “Năm 2014, lần đầu tiên lên núi thấy phòng lớp xập xệ, mưa dột, ván mục, học sinh nheo nhóc... tôi nản lắm. Đáng sợ nhất là buồn và cô đơn, không có gì để giải trí. Nó khác xa với những suy nghĩ của mình khi còn ở nhà. Nhưng rồi, mỗi ngày trôi qua, nhìn những khuôn mặt ngây thơ của các em, sự nhiệt tình quý mến của bà con, tôi nghĩ, mình còn trẻ phải xông pha trải nghiệm...”, cô Thu thổ lộ.


 

 Cô giáo Riáh Uối và cô Trà Thị Thu cùng các học sinh của mình
Cô giáo Riáh Uối và cô Trà Thị Thu cùng các học sinh của mình



Nóc Tắk Pổ nằm trên đỉnh Ngọc Linh với độ cao hơn 1.000m so với mực nước biển. Toàn nóc có khoảng 35 hộ dân, chủ yếu là người Ca Dong, đời sống vô cùng khó khăn. Dù chỉ cách trung tâm huyện Nam Trà My khoảng 10km đường chim bay, nhưng do địa hình đồi dốc nên việc đi lại rất khó khăn, để vào nóc chỉ có một con đường duy nhất nhưng thẳng đứng hiểm trở, trời mưa mọi hoạt động đi lại dường như tê liệt do đường trơn trượt, dễ rơi xuống núi. Chưa kể, để lên đến nóc phải vượt qua 3 khe suối nước lớn chảy xiết. Cô Trà Thị Thu kể, thức ăn phải nhờ các cô dưới xã mua giúp và gửi nhà dân đầu lối đi lên, có khi tự xuống lấy. “Bà con ở đây rất tình nghĩa và yêu thương cô giáo. Người đến bắt điện, người kéo nước, người cho củi… Cô giáo cần gì là người dân giúp đỡ. Đôi lúc mình thiếu gạo bà con cũng cho, nhưng mà ai cũng nghèo nên mình cũng không đành lòng nhận”, cô Thu tâm sự.


3.

Không chỉ điều kiện cuộc sống khổ cực, việc dạy học cũng gặp rất nhiều khó khăn. Hầu như tất cả đồ dùng trang trí, dụng cụ học tập cho đến vệ sinh lớp học, 2 cô đều phải tự làm. Những lúc ốm đau cũng chỉ 2 cô chăm sóc lẫn nhau. Năm 2016, nóc có điện nhưng chập chờn lúc có lúc không. “Mỗi khi về quê, thấy bạn bè làm việc ở những nơi có điều kiện hơn, thu nhập cao, nghĩ lại công việc của mình, rồi chuyện chồng con, tương lai... thấy cũng chạnh lòng. Nhưng tất cả những khó khăn đó không thể so sánh với cái khổ của hơn 35 hộ dân sống trên nóc này. Nếu có điều ước, tôi chỉ mong có một con đường rộng rãi, chắc chắn để người dân bớt khổ hơn”, cô Thu ao ước.

Cô Thu hiện dạy nhóm trình độ 1 và 2, mỗi lớp 6 học sinh (lớp ghép 1, 2). Buổi sáng cô Thu dạy chính và buổi chiều phụ đạo thêm cho các em. Không ít lần, 2 cô phải đến từng nhà để dỗ học sinh và thuyết phục phụ huynh cho con đến trường. Cũng như cô Uối, mỗi tháng cô Thu lại tranh thủ về quê một lần, nhưng có khi cũng không về được vì bận công việc hoặc đường sá mưa gió.

Hai cô giáo trẻ Riáh Uối và Trà Thị Thu, sau bao năm sống cùng bà con, họ đã thành người con của nóc, của làng. “Chắc mình sẽ khó rời xa nơi này bởi những yêu thương mà đồng bào và các em học sinh dành cho quá sâu đậm. Học sinh, đồng bào cần chúng tôi. Chúng tôi sẽ ở lại, đây cũng là cách để mình tri ân và thể hiện khát vọng tuổi trẻ không lùi bước trước mọi gian nan thử thách”, cô Thu tâm sự.

NGỌC PHÚC (sggp)

Có thể bạn quan tâm