(GLO)- Việc UNESCO công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại là một hành động vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, về cơ bản, những giá trị một đi không trở lại của cồng chiêng khu vực này còn hay mất vẫn phụ thuộc vào chủ nhân của di sản ấy. Chủ nhân ở đây được hiểu là chính quyền các tỉnh Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc bản địa sở hữu và sống trong không gian văn hóa cồng chiêng của mình.
Sẽ không cần thảo luận về giá trị của cồng chiêng, vì từ khá sớm, các tỉnh Tây Nguyên đã biết rõ và hết sức chú ý đến vấn đề này. Từ văn bản thông thường đến nghị quyết các cấp, trong phát biểu của các quan chức hoặc tại rất nhiều những kế hoạch, đề án, dự án, cồng chiêng luôn được nhắc đến một cách sâu đậm và mạnh mẽ. Trên thực tế, các tỉnh trong khu vực đều có những hoạt động tương đối giống nhau ở 3 cấp xã, huyện, tỉnh, thậm chí rộng hơn, để “bảo tồn, phát huy các giá trị của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” một cách tương đối định kỳ, chẳng hạn: liên hoan, hội diễn, hội thi, festival... Trong các cuộc này, các đội/đoàn cồng chiêng được triệu tập, được lên sân khấu biểu diễn theo một kịch bản nhất định. Kết thúc những ngày diễn ra sự kiện đông vui nhưng thường không dài ấy, các nghệ nhân trở về buôn làng, cất cồng chiêng và trang phục truyền thống, tiếp tục công việc mưu sinh. Họ lưu giữ những ký ức đẹp ấy khá lâu, nhất là khi vô tình thấy hình ảnh của mình xuất hiện trên truyền hình.
Trình diễn cồng chiêng tại Quảng trường Đại Đoàn Kết, TP. Pleiku. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ |
Để có mặt trong các sự kiện như vừa nêu, các đội/đoàn cồng chiêng thường được địa phương chọn cử, có thể có hoặc không thông qua một cuộc thi nào đó. Các nghệ nhân được tập luyện một số ngày và như đã nói, họ được biểu diễn trên sân khấu hiện đại theo một kịch bản định sẵn khá chặt chẽ về thời lượng, hướng đi, ngay cả cách nhoẻn miệng cười hay cúi đầu chào khách cũng được hướng dẫn cẩn thận để… ghi điểm. Không thể phủ nhận mặt tích cực của sân khấu hóa cồng chiêng (trông có vẻ ngay ngắn, hoành tráng hơn chẳng hạn), không thể phủ nhận được sức mạnh của truyền thông (không dễ gì được lên ti vi, được lan tỏa khắp mọi nơi). Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn chỉ ra những hạn chế cố hữu của chúng. Sân khấu hóa không phải là môi trường thích hợp đối với cồng chiêng dân gian: Thay vì giữa cỏ cây, buôn làng, người ta buộc phải chơi chiêng dưới ánh đèn mạnh và một không gian chật chội. Cũng như vậy, thời lượng truyền hình là sự mâu thuẫn muôn đời không giải quyết được với trình diễn cồng chiêng thứ thiệt: các bài chiêng bị cắt vụn, hình ảnh được chú trọng hơn âm thanh và những thứ khác có liên quan; đều là đẹp chứ đúng sai, hay dở chả mấy ai hay…
Cồng chiêng Tây Nguyên cần một sự thoáng đãng về không gian và sự tự do tư tưởng của người trình diễn. Nói một cách vắn tắt thì cần trả lại môi trường buôn làng vốn có cho cồng chiêng. Điều đơn giản này được chính quyền các cấp khẳng định suốt nhiều chục năm qua nhưng trên thực tế, nó dường như chưa được hiện thực hóa là mấy. Tạm chưa xét đến việc ở một số tỉnh Tây Nguyên, “cồng chiêng cải tiến” đã đi vào quán nhậu và một bộ phận bà con làm dịch vụ này có được chút ít thu nhập, về cơ bản, cồng chiêng ở các buôn làng vẫn ít có cơ hội được thực hành theo đúng với những gì vốn có của nó, vốn thuộc về nó, như đã từng diễn ra trong các dịp hội hè, nghi lễ xưa kia. Để vốn quý ấy tự lên tiếng, tự khẳng định mình, vừa thực sự bảo tồn được một giá trị văn hóa truyền thống độc đáo-không gian văn hóa cồng chiêng-lại vừa góp phần tích cực vào hoạt động du lịch địa phương, không chỉ Gia Lai mà tất cả các tỉnh Tây Nguyên nên mạnh dạn rời bỏ cách làm xưa cũ đã “thống trị” suốt mấy mươi năm qua: sân khấu hóa cồng chiêng!
Trong một nỗ lực đoạn tuyệt với cách làm không còn phù hợp, tại Pleiku, trong tháng 4 và 5 vừa qua, các hoạt động thử nghiệm liên quan đến cồng chiêng đã được tiến hành và bước đầu cho kết quả khả quan. Thay vì tổ chức hội thi, hội diễn, liên hoan như trước, Ngày hội Văn hóa các dân tộc thiểu số đã được diễn ra tại Quảng trường Đại Đoàn Kết trong 2 ngày 1 đêm. Tại đây, trong khuôn viên rộng hơn 500 m2, từng đơn vị cấp huyện (50-80 người/đoàn) được giao toàn quyền về nội dung chương trình và cách thức biểu diễn của mình. Nói một cách nôm na thì trong khoảng không gian, thời gian ấy, bà con có thể đánh chiêng, múa hát vào bất kỳ lúc nào (hoặc không) mà không bị bất cứ giám khảo hay nhà tổ chức nào chấm điểm theo kiểu “truyền thống” hay chỉ đạo này nọ, trừ du khách có thể đến thưởng thức và trải nghiệm. Gần 1 ngàn nghệ nhân, chủ yếu là người Bahnar, Jrai lần đầu tiên được sống thật với cồng chiêng của mình trên thảm cỏ, dưới tán cây xanh, bên cạnh những đồ đan dệt thân quen đã vô cùng hào hứng qua mỗi điệu chiêng, bài múa giữa tiếng hò reo tán thưởng, trầm trồ không ngớt của du khách.
Tiếp nối thành công của ngày hội vừa nêu, dịp 30-4, 1-5 vừa qua, cũng tại khu vực Quảng trường Đại Đoàn Kết, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch đã mời 2 đoàn cồng chiêng của các tộc người bản địa lên trình diễn theo ý thích của chính bà con. Hai đêm “Cồng chiêng cuối tuần” lần đầu tiên đã thu hút được một lượng du khách ngoài mong đợi cho du lịch địa phương. Qua đây, hình thức tổ chức ngày hội văn hóa và cồng chiêng cuối tuần đã được đơn vị chức năng của tỉnh Gia Lai chính thức xác định là hoạt động thường xuyên và định kỳ trong thời gian tới.
Không phải mọi thứ liên quan đến sinh hoạt cồng chiêng như mấy kỳ thử nghiệm vừa rồi đều đã tốt. Một vài trưởng đoàn nói thật, đại ý: Chơi kiểu này vui nhưng mà hao quá, vì ngành Văn hóa kinh phí luôn eo hẹp. Thì ra, sân khấu hóa có cái “hay” của nó: Biết lịch diễn của đoàn mình rồi thì căn, đúng giờ đó, cả đoàn lên biểu diễn xong là về ngay, đỡ được chút tiền ăn ngủ. Lại có vị lãnh đạo khen mọi thứ đều ổn, riêng công tác tổ chức còn yếu. Cụ thể: chưa đủ bàn ghế cho đại biểu ngồi; đại biểu phải len mãi mới đến được chỗ ngồi xem khai mạc... Còn nhiều ý kiến khác nữa và các ý kiến ấy đều có lý do đáng để những người làm công tác tổ chức suy ngẫm, rút tỉa kinh nghiệm nhằm làm tốt hơn cho các lần sau.
Cuối cùng, trong thời đại ngày nay, ứng xử sao cho đúng với cồng chiêng? Chúng ta thừa nhận cồng chiêng Tây Nguyên đã đi qua giai đoạn “chảy máu”, khi từng trở thành đồng nát chất đống hoặc may mắn hơn là được dùng làm máng heo trong các buôn làng. Nhưng chưa có gì bảo đảm cồng chiêng sẽ trường tồn, nếu không có một cái nhìn đúng từ bây giờ, khi không còn sớm nữa. Xét cho cùng, với văn hóa dân gian nói chung, cồng chiêng Tây Nguyên nói riêng, một trong những thái độ tiếp cận phù hợp, với riêng tôi, là hãy xin tự nhận làm học trò Nhân dân thay vì muốn làm thầy các nghệ nhân. Nên trả lại cho cồng chiêng không gian vốn có của nó. Dù đó có thể chưa hẳn là môi trường nguyên thủy như ở buôn làng xưa, nhưng hãy đừng là đèn cao áp sáng choang cùng ầm ào những dàn loa công suất lớn, những đoàn người di chuyển vô hồn dưới bàn tay nhào nặn của các đạo diễn vốn không hề biết đánh chiêng, không hề biết biên chế một dàn chiêng là như thế nào… Đó là một cách mà tôi tin sẽ góp phần giúp cho cồng chiêng ngân mãi trên cao nguyên bao la, vốn là cái nôi của loại nhạc cụ tự thân vang này.
NGUYỄN QUANG TUỆ