Cuộc thi phóng sự, ký sự Gia Lai 50 năm đổi mới và phát triển

Ấm no theo những vườn cao su - Kỳ 2: Đánh thức “mỏ vàng” trên đất Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(GLO)- Để có cuộc sống ấm no như hôm nay, những thế hệ đi trước đã không tiếc mồ hôi, công sức để biến vùng đất hoang hóa thành những vườn cây cao su xanh tốt. Không những thế, họ quyết tâm vỡ đất, lập làng, đánh thức “mỏ vàng” trên đất Tây Nguyên.

Lên Ia Dơk nghe chuyện di dân, lập làng

Trên bản đồ hành chính xã Ia Dơk (huyện Đức Cơ) bây giờ không còn tên làng Mới. Làng đã được sáp nhập theo chủ trương của Đảng và Nhà nước với tên gọi mới là Dơk Ngol. Thế nhưng, không ít người ở miền biên viễn này vẫn nhớ như in câu chuyện Anh hùng Lao động Rơ Mah Klum vận động bà con lập làng để trồng cao su.

Ông Rơ Mah Klum đã về với thế giới Atâu gần 15 năm. Thế nhưng, ông để lại cho cộng đồng một ngôi làng trù phú với những vườn cao su xanh mướt và cuộc sống no đủ.

Cán bộ Công ty 74 hướng dẫn công nhân người dân tộc thiểu số cạo mủ cao su. Ảnh: V.H

Cán bộ Công ty 74 hướng dẫn công nhân người dân tộc thiểu số cạo mủ cao su. Ảnh: V.H

Một ngày cuối tháng 6-2024, chúng tôi đến thăm gia đình ông Rơ Mah Duen ở làng Dơk Ngol. Ông là người có uy tín của làng. Ông vui vẻ cho biết: “Các con đi cạo mủ cao su hết rồi, mình ở nhà chăn đàn bò gần 20 con và 10 con dê. Tuổi cao rồi làm được cái gì thì làm, đỡ đần con cháu được phần nào hay phần ấy”. Trước đây, ông Duen cùng ông Rơ Mah Klum đi vận động dân làng tiến hành “cuộc di dân tìm đến ánh sáng, ấm no và hạnh phúc” như cách nói của nhiều người.

Ông Duen kể: “Mình thua anh Klum 4 tuổi. Mặc dù ít tuổi hơn nhưng thường chơi với nhau. Cũng chính vì thế, sau này, mình lấy em gái của anh Klum làm vợ. Cả cuộc đời anh Klum đã cống hiến cho cách mạng, cho cộng đồng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về địa phương, anh Klum thấy người dân làng mình khổ quá, ở mãi trong núi, nhiều tập tục lạc hậu, ốm đau thì lo cúng Yàng, làm gì cũng sợ Yàng phạt, cái ăn không đủ, con cái không được đến trường.

Cũng chính thời gian này, Công ty 74 (Binh đoàn 15) có chủ trương khai hoang đất trồng cao su. Quyết không để dân làng mình khổ thêm, năm 1995, anh Klum đã đến gặp lãnh đạo Công ty 74 bàn cách đưa dân ra ở gần đường, lập làng, khai hoang, cải tạo đất để trồng cao su.

Bất kể ngày đêm, anh Klum cứ đến từng nhà để vận động. Để dân tin, anh đưa gia đình mình ra trước. Sau đó, 47 hộ dân đã ra ở cùng nhau, làm công nhân trồng cao su cho Công ty 74. Cái tên làng Mới bắt đầu từ đó”.

Để hiểu thêm về những ngày gian khó, khai hoang lập làng của người dân nơi đây, chúng tôi tìm đến nhà ông Rơ Mah Juech-Trưởng thôn Dơk Ngol. Nhà ông Juech nằm lưng chừng con dốc, dưới những tán cao su.

Ông kể: “Ngày ấy, 2 làng Dơk Ngol và Dơk Lah nằm phía sâu trong rừng, đường sá đi lại khó khăn, người dân sản xuất theo tập quán phát-đốt-chọc-trỉa nên cuộc sống nghèo nàn, lạc hậu; trẻ em ít được đến trường vì bố mẹ còn bận lên rừng, ra rẫy tìm cái ăn.

Ông Klum và lãnh đạo Công ty 74 đã vận động người dân 2 làng này ra lập cụm dân cư, lấy tạm cái tên là làng Mới. Hồi đó, tôi theo cha mẹ chuyển ra làng Mới. Vì không có máy đào, máy xúc như bây giờ nên sau 1 ngày làm việc, tay chân ai cũng chảy máu.

Để trồng được một cây cao su là cả chục con người phải phát dọn cây, đào gốc, rồi bón phân, trồng được cây rồi thì phải làm rào để che chắn gió mưa... Có những ngày, trên các triền dốc, có hàng trăm người tham gia lao động. Vất vả thế, nhưng tất cả đều chịu khổ vì tin rằng cây cao su sẽ đem lại cuộc sống ấm no”.

Hướng dẫn công nhân cạo mủ cao su. Ảnh: Đức Thụy

Hướng dẫn công nhân cạo mủ cao su. Ảnh: Đức Thụy

Làng Dơk Ngol hiện có 295 hộ với 1.386 khẩu, tỷ lệ hộ nghèo còn 13%. Đặc biệt, nhờ cây cao su mà 45% số hộ trong làng có thu nhập trên 300 triệu đồng/năm.

“Di sản mà ông Rơ Mah Klum và những người thời kỳ đầu đi khai hoang, mở đất để lại đó là 70% số hộ dân trong làng có cao su tiểu điền, với diện tích hơn 200 ha, 86% người dân trong làng tham gia cạo mủ cao su cho Công ty 74”-ông Juech nói.

Trò chuyện cùng chúng tôi, Đại tá Hà Văn Nam-Bí thư Đảng ủy Công ty 74-cho biết: “Chúng tôi luôn biết ơn, trân trọng những người đã có công đưa cây cao su lên miền biên viễn. Chính vì thế, bên cạnh tạo việc làm cho người lao động, tuyển công nhân là người dân tộc thiểu số, hàng năm, chúng tôi trích 3-5 tỷ đồng để thực hiện công tác dân vận, giúp đỡ người dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Cùng với đó, khi tái canh cây cao su, chúng tôi còn cho người dân mượn đất để trồng cây lương thực, góp phần nâng cao đời sống”.

Những người khai hoang, vỡ đất

Lần giở những trang sử của ngành Cao su Việt Nam mới thấy hết tầm nhìn chiến lược của Đảng, Chính phủ khi quyết định đưa cây cao su lên trồng đại trà trên đất Tây Nguyên. Theo đó, năm 1983, trên cơ sở thành tựu đạt được, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) chủ trương đẩy nhanh quá trình khai hoang và mở rộng diện tích cây cao su.

Để chuẩn bị tốt cho vụ trồng mới, năm 1983, Tổng cục Cao su (nay là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam) đã giao nhiệm vụ cho các công ty cao su ở Đông Nam Bộ tích cực hỗ trợ các công ty trên địa bàn Tây Nguyên. Cụ thể, Cao su Đồng Nai giúp Cao su Ea H’leo; Cao su Dầu Tiếng giúp Cao su Krông Buk, Cao su Chư Sê; Cao su Phước Hòa giúp Cao su Mang Yang, Cao su Kon Tum.

Anh hùng Lao động Hồ Văn Ngừng là 1 trong 18 cán bộ của Công ty Cao su Dầu Tiếng được giao nhiệm vụ giúp Công ty Cao su Chư Sê khảo sát, khai hoang đất, chuẩn bị giống để tiến hành trồng cao su. Nhớ lại những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, ông Ngừng chia sẻ: Khi lên Chư Sê khai hoang, chúng tôi đối mặt với thú dữ, bom mìn còn sót lại sau chiến tranh…

Nhiều người dân và thậm chí là lãnh đạo địa phương vẫn không tin cây cao su có thể phát triển trên vùng đất đỏ này. Tuy nhiên, với sức trẻ, vừa làm vừa thử nghiệm, cuối cùng thì cây cao su đã trở nên xanh tốt và cho kết quả khả quan.

“Đây là một chủ trương mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa hết sức quan trọng về kinh tế-xã hội và quốc phòng-an ninh. Chủ trương này được lãnh đạo Tổng cục Cao su hiện thực hóa bằng nhiều cách làm hay, sáng tạo. Chính vì thế, ngay trong năm 1984, các công ty cao su trên địa bàn Tây Nguyên lần lượt ra đời bao gồm: Krông Buk, Ea H’leo, Chư Sê, Mang Yang và Kon Tum”-ông Ngừng nhấn mạnh.

Công nhân kiểm tra, chăm sóc vườn cây cao su. Ảnh: Đức Thụy

Công nhân kiểm tra, chăm sóc vườn cây cao su. Ảnh: Đức Thụy

Ngày ấy, công cuộc khai hoang, vỡ đất trên địa bàn tỉnh Gia Lai có 4 công ty cao su gồm: Chư Sê, Chư Păh, Mang Yang, Chư Prông. Ngoài ra, còn có sự tiếp sức không hề nhỏ của những cuộc di dân đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên của các tỉnh phía Bắc.

Năm 1976, đoàn cán bộ của Nông trường Đồng Giao ở tỉnh Hà Nam Ninh (nay là tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình) đã vào khảo sát xây dựng khu kinh tế mới tại huyện Chư Prông. 1 năm sau đó, hơn 3 ngàn thanh niên của địa phương này đã vào Chư Prông xây dựng khu kinh tế mới và thành lập Nông trường Cao su Chư Prông (tiền thân của Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông ngày nay).

Ông Nguyễn Văn Thành (thôn Hợp Thắng, xã Ia Drăng, huyện Chư Prông) nhớ lại: “Thực hiện lời kêu gọi của Đảng, Nhà nước, chúng tôi-những thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi tạm biệt quê hương lên đường vào Gia Lai lập khu kinh tế mới. Kể làm sao hết những khó khăn, gian khổ, đôi lúc tưởng chừng như bỏ cuộc. Thế nhưng, bằng sức trẻ, nghị lực, chúng tôi đã vượt qua tất cả. Và thành quả là hôm nay, những vườn cao su xa tít tầm mắt, mang lại cuộc sống ấm no cho người dân”.

Ông Ksor Jao (làng Sung Le Tung, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ) kể về những năm tháng khai sơn phá thạch trồng cao su. Ảnh: Vĩnh Hoàng

Ông Ksor Jao (làng Sung Le Tung, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ) kể về những năm tháng khai sơn phá thạch trồng cao su. Ảnh: Vĩnh Hoàng

Còn với ông Ksor Jao (làng Sung Le Tung, xã Ia Kla, huyện Đức Cơ), ký ức về những năm tháng khai sơn, phá thạch cùng các công ty của Binh đoàn 15 vẫn còn in đậm trong tâm trí.

Ông hồi nhớ: “Năm 1985, Binh đoàn đã vận động người dân địa phương tham gia khai hoang. Bấy giờ, nơi đây như một đại công trường với hàng ngàn người. Thiếu máy móc, tất cả chỉ lao động thủ công với cuốc, rìu, dao và xẻng để chặt cây, dọn gốc, đào hố. Gian khổ nhưng ai cũng tin tưởng cây cao su sẽ đem đến cuộc sống ấm no nên tất cả đều cố gắng”.

Đưa mắt nhìn về cánh rừng cao su trập trùng, ông Jao tự hào: “Thành quả của những ngày vất vả ấy giờ đây người dân trong làng ai cũng làm công nhân cạo mủ, nhà tôi 2 thế hệ cạo mủ. Chúng tôi rất tự hào vì đã góp phần đưa cây cao su phát triển như ngày hôm nay”.

Có mặt tại Tây Nguyên từ rất sớm, cả cuộc đời gắn bó với biên giới, với cây cao su, hơn ai hết, Đại tá, Anh hùng Lao động Trần Quang Hùng-nguyên Giám đốc Công ty 74 thấu hiểu những khó khăn, gian khổ khi đưa cây cao su lên vùng biên giới: “Công cuộc vận động người dân tham gia cùng đơn vị trồng cao su rất vất vả, đòi hỏi phải thực hiện chính sách “mưa dầm thấm lâu”. Tập quán của bà con làm lúa rẫy, bây giờ tiếp cận với cây công nghiệp, với kỹ thuật chăm sóc, cạo mủ nên chúng tôi phải cầm tay, chỉ việc. Tuy nhiên, nhờ được hướng dẫn tận tình, khi tham gia cạo mủ có thu nhập cao, người này vận động người kia nên số công nhân xin vào đơn vị cạo mủ cao su ngày càng đông”-Đại tá, Anh hùng Lao động Trần Quang Hùng-hồi nhớ.

Ông Võ Toàn Thắng-Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Cao su Chư Prông: “Chúng tôi luôn trân trọng, biết ơn các thế hệ đi trước đã không tiếc mồ hôi, công sức để biến vùng đất hoang hóa thành những rừng cao su xanh tốt như hôm nay. Họ đã đặt nền móng vững chắc cho cây cao su phát triển, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội và đảm bảo quốc phòng-an ninh trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên”.

Có thể bạn quan tâm