Báo xuân

Ruộng bậc thang Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Được thiên nhiên ưu đãi cộng với sự cần mẫn, khéo léo, người dân bản địa ở xã Dun (huyện Chư Sê) đã “vẽ” nên một bức tranh đa sắc màu, làm say đắm lòng người, đó chính là những thửa ruộng bậc thang đang trong “mùa vàng”.

Dải lụa vàng miên man triền núi

 

Ảnh: Phương Dung
Ảnh: Phương Dung

Ruộng bậc thang ở xã Dun được hình thành khi nào đến bây giờ rất ít người biết. Nhưng theo lão nông Rmah Rí (làng Greo Sek) thì những ô ruộng đầu tiên được hình thành từ năm 1946. Bằng sự cần mẫn của mình, người dân bản địa đã biến những vùng đất đá, đồi dốc thành những thửa ruộng độc đáo, đẹp mắt. Dẫu những bậc thang ấy được kiến tạo chẳng theo một hình thù cố định, có đoạn uốn lượn, có bậc lại thẳng như đường băng… song chính sự không đồng đều ấy lại tạo nên một tổng thể chẳng chê vào đâu được.

Mỗi ô ruộng là một mảng màu tạo nên một bức tranh đa sắc khiến  khách lãng du luôn ngẩn ngơ mỗi khi ngang qua. Chị Dương Thị Thu Huyền-một giáo viên dạy ở xã Ayun-bộc bạch rằng: “Dù khá quen thuộc với hình ảnh của ruộng bậc thang, từ khi những ô ruộng còn là mảng màu tối của bùn đất, đến khi chuyển sang màu xanh của lúa non, màu vàng của lúa chín… nhưng mỗi ngày mình đều dừng chân lại để chiêm ngưỡng vẻ đẹp có một không hai này. Nhìn vào đấy, mình như có thêm năng lượng cho một ngày mới”. Còn với lão nông Rmah Rí, khi làm phép so sánh với ruộng bậc thang ở Sa Pa mà ông đã có dịp ghé thăm cách đây hơn 20 năm, ông tự hào: “Ruộng bậc thang của mình cũng không thua đâu!”.

Kể quá trình hình thành những thửa ruộng bậc thang, lão nông Rmah Rí trầm ngâm: Công cụ sản xuất lúc bấy giờ rất thô sơ, cứ 2 con trâu (mẹ con) mới đổi được một chiếc cuốc nên để mở rộng diện tích gieo trồng rất khó khăn. Những bậc thang cũng được làm thủ công, bằng những chiếc cọc gỗ thô sơ, sau đó lấy lá cây, thân cây chắn ngang và đổ đất xuống tạo thành bậc ngăn nước. Vì vậy, hàng năm, khi gần đến mùa gieo trồng, thanh niên trai tráng trong làng lại cùng nhau gia cố lại từng bậc thang, sửa lại những chốt dẫn nước… để đảm bảo nguồn nước trời tưới mát từng ô ruộng. Lâu dần, người dân thấy rằng việc phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên khiến cho nguồn lương thực bấp bênh và rồi họ nghĩ đến việc “bắt” dòng nước chảy theo ý mình. Nghĩ là vậy, song khi bắt tay vào làm nhiều người đã phải bỏ cuộc. Vì diện tích đồi núi, đất đá nhiều, vừa đào mương vừa nắn dòng, mỗi ngày 10 thanh niên trai tráng cũng chỉ đào được khoảng 50 mét-200 mét. “Vào những năm 1962, nhà nào giỏi cũng chỉ làm được 10-15 gùi lúa/sào và số này chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Vì vậy, sự giàu có được đo bằng gùi lúa và cứ 2-3 gùi thì đổi được 1 con trâu to”-ông Rmah Rí vui vẻ kể. Về sau, khi công cụ sản xuất có thể trao đổi dễ dàng bằng bò, heo, lúa và không đắt như trước thì diện tích ruộng bậc thang cũng dần mở rộng (chiếm 1/3 diện tích lúa nước hai vụ của xã), từ đó hình thành nên những “dải lụa” tuyệt đẹp nơi lưng chừng núi.

Sự gắn kết con người-thiên nhiên

 

Bức tranh mùa vàng. Ảnh: Phương Dung
Bức tranh mùa vàng. Ảnh: Phương Dung

Đang ngẩn ngơ trước khung cảnh thiên nhiên hữu tình, hình ảnh một người phụ nữ Jrai với đôi tay thoăn thoắt đập từng bó lúa trĩu hạt ngay tại bờ ruộng, lập tức thu hút sự chú ý của tôi. Bởi lẽ, ngày nay khoa học kỹ thuật đã hỗ trợ cho nhà nông rất nhiều, sao vẫn còn phải đập lúa thủ công? Ngưng tay, chị Rơmah Ruch (làng Greo Sek) trò chuyện: “Đây là số lúa còn sót lại do mình cấy dặm nên giờ mới thu hoạch. Diện tích ít nên mình cắt, đập luôn tại ruộng”. Năm nay, 6 sào lúa mà gia đình chị Rơmah Ruch trồng bằng giống R-dẻo đã cho năng suất cao, đạt 60 bao. Vì vậy, sau khi thu hoạch, gia đình chị quyết định bán đi 30 bao để lấy tiền đầu tư cho vụ sau, số còn lại cất vào kho dự trữ nguồn lương thực chờ vụ kế tiếp.  

Nếu như trước đây, những thửa ruộng bậc thang duy chỉ ưu tiên giống lúa bản địa thì đến năm 2006, khi thủy lợi Ia Ring hình thành, chính quyền và nhân dân đắp đập Choa Neng giữ nước, đưa nước vào từng chân ruộng, người dân đã đưa thêm nhiều giống lúa mới vào gieo trồng, như: Tám Thơm, R-dẻo,... Nhờ đó, năng suất cây trồng được cải thiện và đời sống của bà con cũng được nâng lên rõ rệt, bình quân mỗi sào lúa cho thu hoạch 10-15 bao. Dẫu vậy, xen trong những giống lúa mới, người dân địa phương vẫn dành riêng vài ô ruộng, chừng 0,5 đến 1 sào để lưu giữ giống lúa bản địa. Lý giải về điều này, anh Rah Lan Nhất (làng Pết), cho rằng: Giống lúa này năng suất không cao, lại đòi hỏi thời gian gieo trồng lâu hơn nhưng hạt cơm dẻo, thơm và khi không có thức ăn chỉ cần chấm với muốn ớt vẫn thấy ngon.  

Cùng với việc gìn giữ giống lúa bản địa, một số gia đình còn giữ giống nếp đen. Bởi, theo quan niệm của người dân nơi đây, nếp đen là giống lúa quý, được lưu truyền từ thời xa xưa và chỉ được dùng vào các dịp lễ, Tết, bỏ mả, hoặc làm quà biếu… “Đặc biệt, lúa nếp này sau khi thu hoạch xong đem ủ rượu với trứng gà rồi chôn dưới đất một thời gian đem lên uống rất tốt cho sức khỏe phụ nữ sau sinh và người già”-chị Ruch cho biết thêm về công dụng của giống nếp đen.

…Chiều dần buông. Những chiếc xe công nông chất đầy những bao lúa cũng ì ạch men theo triền dốc mang thành quả của một ngày lao động về nhà. Dưới thung lũng, từng sợi khói mỏng, mềm bay lên từ các mái nhà uốn lượn rồi quyện vào tia nắng chiều. Phía xa, từng đàn cò trắng bay về tìm nơi trú ngụ… Chỉ bấy nhiêu thôi đã khiến tôi hiểu rằng, người dân nơi đây hoàn toàn có quyền tự hào về một Sa Pa của riêng mình.

Phương Dung

Có thể bạn quan tâm