Báo xuân

Trăm năm một vùng chè

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Trên cùng mảnh đất, có những gia đình mà cả 3 thế hệ đều gắn bó với những cây chè tuổi đời gần 100 năm. Chè Bàu Cạn như một nhân chứng cho sự trường tồn với thời gian, mang đến cho những người công nhân cuộc sống ấm no, dù mỗi giai đoạn lịch sử có lúc thăng trầm khác nhau.

Cây chè gắn 3 thế hệ

Khi chúng tôi đến tìm hiểu thông tin về những người trước đây từng là cu-li đồn điền chè Bàu Cạn thời Pháp thuộc, Giám đốc Phạm Văn Trường-Công ty TNHH một thành viên Chè Bàu Cạn-người có thâm niên công tác 30 năm ở đây-sau một hồi suy ngẫm, lắc đầu chậm rãi nói: “Đã theo ông bà hết rồi, giờ không còn ai”.

 

Cây chè Bàu Cạn có tuổi đời gần 100 năm, mang đến cho những người công nhân cuộc sống ấm no. Ảnh: Minh Nguyễn
Cây chè Bàu Cạn có tuổi đời gần 100 năm, mang đến cho những người công nhân cuộc sống ấm no. Ảnh: Minh Nguyễn

Thế nhưng, điều bất ngờ đã xảy ra. Lần tìm qua ký ức của người mà anh giới thiệu (thuộc thế hệ thứ hai) thì vẫn còn một người được xem nhân chứng sống từ khi đồn điền chè Bàu Cạn bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, trồng cây chè đầu tiên trên mảnh đất này.

Bà Lý Thị Kỳ-năm nay đã 80 tuổi-rời quê Bình Sơn (Quảng Ngãi) từ năm 1960 lên đây làm công nhân hái chè. Khi đặt chân đến thì khu vực này lúc bấy giờ đã là những đồi chè bạt ngàn, xanh tốt. Từ một công nhân hái chè, chỉ vì viết chữ đẹp bà đã được ông chủ Pháp thời đó cho lên làm kế toán trả lương cho công nhân. Trò chuyện với chúng tôi, lục tìm trong ký ức khá lâu, cái tên công nhân Siu No, trước đây vốn không xa lạ, mới được bà nhớ đến.

Theo chỉ dẫn, tìm đến thôn Ia Mua (xã Bàu Cạn, huyện Chư Prông), chúng tôi tìm gặp được cụ Siu No (dân tộc Jrai), cu-li đồn điền chè Bàu Cạn từ thời Pháp. Cụ Siu No năm nay đã trên chín mươi mùa rẫy và thường xuyên đau bệnh. Cụ móm mém kể-qua lời “phiên dịch” của người con gái út, chị Ksor Đe, năm nay tuổi cũng xấp xỉ 50: Hồi đó, vợ chồng cụ sinh sống ở xã Ia Pia, có với nhau đến 11 người con. Sau năm 1968 mới chuyển ra ở thôn Ia Mua, xã Bàu Cạn bây giờ. Cụ sinh năm 1925, tuy chưa phải là người tham gia trồng cây chè đầu tiên trên mảnh đất Bàu Cạn này nhưng cụ là một trong những người làm cu-li đồn điền Pháp trong những ngày đầu.

Thời điểm đó, khi những búp chè bắt đầu vươn mình đón ánh bình minh trong làn sương buổi sớm, bọn cai đồn điền vác roi vào từng nhà, khua từng người ra ngoài điểm danh, rồi đẩy ra nơi làm việc. Vợ chồng cụ nằm trong số này, lao động quần quật trên cánh đồng chè từ sáng đến tối mịt mới được nghỉ ngơi. Ăn uống kham khổ, họ thường xuyên bị đau ốm, bệnh tật. Một tuần ông bà mới được cho về nhà 1 ngày, bỏ mặc gần chục đứa con nheo nhóc, đứa lớn chăm đứa nhỏ, cứ thế tồn tại.

Cụ Siu No không còn nhớ mình bắt đầu làm cho Pháp từ năm nào, theo như giấy tờ còn để lại thì cụ tham gia kháng chiến năm 1960, vào Đảng năm 1983. Trong nhà còn giữ rất nhiều bằng khen, giấy chứng nhận chiến sĩ thi đua thời cụ còn làm ở Nông trường Chè Bàu Cạn. Trong đó, có bằng khen do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký tặng năm 1985.

Còn chị Ksor Đe cũng không nhớ các anh chị của mình trước đây có làm công nhân hái chè hay không, vì hiện giờ họ đã về với Atâu. Chị chỉ nhớ mình vào làm công nhân cho Nông trường Chè Bàu Cạn từ năm 1986 đến năm 1993 thì nghỉ. Chồng chị cũng là công nhân hái chè, rồi đến lượt con gái chị là Ksor Rơng (24 tuổi) cũng đang kế tục cha mẹ và người ông của mình trở thành công nhân Công ty Chè Bàu Cạn từ năm 2013.

Hương nồng trên Cao nguyên

Đi trên vùng đồi Bàu Cạn bây giờ là miên man đồi chè ngằn ngặt xanh trên những thảo nguyên mênh mang bằng phẳng. Khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp nên cây chè được trồng từ năm 1927 đến nay vẫn phát triển tốt, hương chè vẫn nồng thơm quyến rũ. Theo Giám đốc Phạm Văn Trường lý giải: Giống chè cũ được người Pháp tuyển chọn kỹ từ những cây chè cổ thụ, mọc tự nhiên ở cao nguyên Hà Giang. Đây là thứ chè Shan lá to, búp và lá non có nhiều lông trắng như tuyết, sinh trưởng khỏe, chịu ẩm, chịu lạnh, năng suất cao và chất lượng tốt.

Đưa chúng tôi đến thăm vườn chè giống cũ, anh Hoàng Văn Thục-Đội trưởng đội 2-giới thiệu: “Đây là những cây chè được người Pháp trồng từ năm 1932. Nếu để phát triển bình thường thì nó rất cao, không khác gì cây cổ thụ. Tuy nhiên để tiện cho việc chăm sóc và thu hái nên phải tạo tán”. Hiện tại, diện tích chè loại này chỉ còn lại hơn 100 ha trong tổng số hơn 500 ha chè của Công ty. Có những cây chè cổ thụ có đường kính tán cây rộng đến 2-3 mét!

 

Bà Vũ Thị Kỳ hồi tưởng những ngày làm công nhân hái chè. Ảnh: Minh Nguyễn
Bà Vũ Thị Kỳ hồi tưởng những ngày làm công nhân hái chè. Ảnh: Minh Nguyễn

Bà Lý Thị Kỳ hồi tưởng: Sau nhiều đợt khai thác kể từ khi thành lập (năm 1932), Công ty Nông nghiệp Chè và Cà phê Kon Tum-An Nam, viết tắt là CATECKA-tức đồn điền chè Bàu Cạn-đã cho tiến hành “đóng đao”, nghĩa là chặt bỏ những cành chè già cỗi nhường chỗ cho những nhánh chè mới non tơ mọc lên. Khâu này rất quan trọng, cai đồn điền Pháp giám sát rất kỹ, những chiếc rựa dùng để chặt cành vô cùng sắc bén (được kiểm chứng bằng một cách có một không hai là… cạo lông chân), vì thế những vết cắt rất ngọt, không bị xước, bị nứt cành hay chẻ ngọn. Khi những nhánh chè lúp xúp đã vươn cao, cai đồn điền mới tuyển chọn những công nhân giỏi, có kỹ thuật hái đợt đầu.

Việc hái chè không hề đơn giản. “Công nhân phải hái đúng kỹ thuật theo cây thước hình cây thánh giá, dưới thanh ngang là không được hái nhằm tạo tán, tạo mặt bằng. Khâu này được chính những cai người Pháp giám sát, công nhân nào chỉ cần lơ đễnh hái sâu một chút thì sẽ bị cho nghỉ việc 1 tuần. Sau nhiều đợt hái như vậy thì mới cho những đội khác rải quân vào hái”-bà Kỳ kể.

 

Bàu Cạn bây giờ vẫn mơn mởn những cánh đồng chè ngát xanh. Ảnh: Minh Nguyễn
Bàu Cạn bây giờ vẫn mơn mởn những cánh đồng chè ngát xanh. Ảnh: Minh Nguyễn

Tuy nhiên, qua một thời gian dài, diện tích chè cũ do người Pháp trồng đã quá già cỗi, năng suất rất thấp. “Diện tích chè Shan tuyết “rụng răng” này đã được thay thế bởi những cây chè cùng loại bằng cách giâm cành từ những cành cây chè trẻ. Trong bộ giống của Việt Nam đây không phải là giống chè quý, Bắc-Nam đều có hết nên không có kế hoạch bảo tồn gì và cũng không có kinh phí để làm việc này”-Giám đốc Trường nói. Chính vì vậy, từ năm 2001 đến 2004, Công ty đã thay thế gần 30 ha diện tích chè cũ bằng chè cao sản cho năng suất, sản lượng cao hơn. Nếu giống chè cũ cho năng suất 5 tấn chè búp tươi/ha thì giống mới đạt đến 20 tấn chè búp tươi/ha.

Bàu Cạn bây giờ vẫn mơn mởn những cánh đồng chè ngát xanh. Tuy về mặt thương hiệu chưa thể so bì với những vùng chè nổi tiếng khác nhưng chè Bàu Cạn vẫn còn đó một vị riêng quyến rũ, nồng nàn hương cao nguyên Pleiku.

Minh Nguyễn

Có thể bạn quan tâm