Tôi nhớ những tháng năm bé thơ của mình bên căn bếp nhỏ đượm in dáng mẹ, dáng bà. Căn bếp lợp bằng mái tranh. Mỗi ngày, mẹ cặm cụi đỏ lửa để nấu những bữa cơm cho cả nhà. Khói ám vào mái bếp ngày này qua ngày khác khiến cho những mảng tranh trở nên đen sì. Mỗi khi trời mưa, từng giọt nước nhỏ xuống hiên cũng bị pha lẫn màu đen của khói ám và bồ hóng.
Năm tôi 8 tuổi, có lần ba mẹ đi làm đồng về muộn, thấy các em đói bụng, tôi đã hứng nước mưa chảy xuống từ mái bếp để nấu cơm. Kết quả là nồi cơm hôm ấy đổi màu, chén cơm không còn màu trắng thơm ngon nữa.
Ba chị em cứ lo lắng sẽ bị mẹ mắng. Nhưng nhìn thấy nồi cơm thì mẹ rơm rớm nước mắt và ôm chị em tôi vào lòng mà bảo: “Con gái mẹ đã biết việc rồi đấy!”. Rồi mẹ ân cần dặn dò: “Các con còn nhỏ, không nên tự ý nhóm lửa nấu cơm, rất nguy hiểm, lần sau chịu khó đợi mẹ về nhé!”.
Mẹ tôi thường nấu cơm bằng nồi gang. Chị em tôi thích ăn cơm cháy nên thường lén mẹ cho thêm nắm lá phi lao vào để lớp cơm dưới đáy nồi cháy vàng. Đến bữa, chúng tôi thích thú chia nhau từng mảng cơm cháy ấy, nắm lại và quệt vào cái đáy nồi đựng thức ăn mặn. Chao ơi, nó ngon đến lạ kỳ!
Minh họa: HUYỀN TRANG |
Khi mẹ nấu cơm, tôi thường ủ vào chỗ than hồng mẹ cời khi thì củ khoai, trái bắp, khi thì con rô đồng hay chú cua béo ngậy mà ba mới bắt được. Chị em tôi hí hửng dùng que tre gạt than xem thức ăn đã chín tới đâu. Chỉ sau một lát là đã thấy mùi thơm dậy cả căn bếp. Hơi than ấm nồng làm cho đôi má tôi ửng đỏ. Ba chị em vừa thổi vừa ăn, rồi đưa đôi tay lem nhem nhọ quệt đầy lên mặt nhau. Tiếng cười rộn vang lẫn trong tiếng mắng yêu của mẹ.
Căn bếp của mẹ nhỏ nhưng chứa được rất nhiều thứ, từ nồi niêu, chén dĩa đến cuốc xẻng hay chiếc nơm ba dùng để bắt cá cũng được treo cẩn thận trên gác bếp. Có lẽ nhiều nhất vẫn là củi khô. Những thanh củi chắc và cháy đượm như sim, phi lao, bạch đàn… được mẹ chặt bằng nhau, chất gọn gàng vào một góc. Đó chính là nguồn chất đốt dự trữ cho cả mùa mưa hay những lần giỗ chạp cần đun nấu nhiều. Phía trên đống củi là ổ gà và những hũ dưa, cà muối của bà. Thi thoảng, chú mèo lười vẫn cuộn tròn người trên đấy và luôn hướng đôi mắt đầy thèm thuồng về phía chiếc nồi mẹ bắc trên bếp.
Có lẽ, với ai đó, nhọ nồi và bồ hóng sẽ gây khó chịu vì hễ cứ chạm vào là bị dính lem đen hết áo quần. Nhưng với đám trẻ chúng tôi thì chiếc nồi nào dính nhiều nhọ lại càng được ưa thích. Lý do là bởi, thế hệ 8X như tôi ngày ấy, trường làng vẫn chưa có bảng xanh chống lóa như bây giờ.
Khi nào đến phiên trực nhật là buổi tối hôm trước, tôi lại phải cạo nhọ nồi để sáng hôm sau mang đến lớp sơn bảng. Hôm nào nhọ nồi không đủ thì lấy thêm lớp bồ hóng bám trên chạn bếp lau cho bảng thật đen để những nét chữ của thầy cô được hiện lên rõ hơn.
Có những buổi chiều, tôi cùng lũ bạn ngồi ngắm từng làn khói bay lên từ mái bếp. Chúng tôi thi nhau ngửi và cùng nhau đoán mùi của khói. Có đứa bảo khói có mùi khen khét, cay cay; đứa lại bảo khói có mùi cá kho riềng, hành phi… rồi xúm lại xem hình hài của khói.
Làn khói len qua mái bếp, bay lên không trung có lúc như đoàn tàu đang chao lượn, lúc lại như cô tiên đang làm phép màu ban phước xuống nhân gian, lúc y hệt như tán cây đang chở che cho chúng tôi… Cứ thế, chúng tôi tha hồ tưởng tượng ra mọi thứ để rồi thỉnh thoảng lại cãi nhau chí chóe, rộn cả góc sân.
Nhớ tới căn bếp của mẹ, tôi soạn lại chiếc bếp cũ lâu ngày bỏ quên bên góc hè, thêm ít củi chị hàng xóm cho và nổi lửa nhóm bếp. Những trái bắp được cho vào nồi chuẩn bị luộc, các con tôi ngồi vây quanh, hí hửng đợi chờ. Khói làm cho mắt mũi chúng ửng đỏ nhưng không giấu được sự thích thú, háo hức.